"Hăm ba ông Táo về trời
Bình vôi ở lại chịu lời đắng cay..."
Để đây, vài chục năm nữa cho con mình nó kể chuyển cho cháu chắt mình nghe
---
SỰ TÍCH TÁO QUÂN
(Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi)
.
Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau.
Một năm trời làm mất mùa. Tình trạng đói kém diễn ra khắp miền. Hai vợ chồng đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả ai thuê. Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Cái chết luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ: “Tôi phải đi nơi khác kiếm ăn”. Người vợ đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo: “Tôi chưa biết sẽ đi đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng, tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm. Hết ba năm không thấy tôi trở về, ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác”.
Người vợ khóc lóc thảm thiết. Nàng đành phải để chồng ra đi. Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Nhờ lanh lẹ và xinh xắn, nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.
Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Nàng thì vẫn ngày ngày đợi chồng. Những cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng. Giữa lúc ấy vợ người chủ chết. Sẵn có cảm tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng câu trả lời của nàng là: “Chồng tôi hẹn ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo”.
Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số. Hàng ngày, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên đường cái quan. Người đàn ông kia giục nàng quyết định: “Hoặc là chồng nàng đã chết, hoặc là còn sống nhưng đã có gia đình mới ở nơi khác. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới”. Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn ân tình của anh, và xin rốn chờ cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không một tin tức. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.
Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: “Thế là hết. Bởi số cả!’’.
Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới, không còn biết ăn nói làm sao. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến và an ủi họ. “Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi”.
Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Chàng nghĩ đến cái chết. Trong lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.
Cái chết đó như tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm. “Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không ráng chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt?”. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.
Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi dân làng sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh, thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà. Người chồng mới, sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc chàng. Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.
Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để định công luận tội. Tất cả mọi người đều phải khai rõ sự thật ôm ấp trong lòng.
Theo lời khai của người chồng cũ, thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu đậm đối với người vợ mới. Đến lượt người đàn bà, nàng thú thật cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng.
Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau, và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ.
Diêm vương còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình trên trần thế.
(Ảnh chụp có thể đã gần hai chục năm)