Tuesday, January 26, 2021

Thiền tập & Chánh niệm

 


Trong truyền thống đạo Bụt, thiền tập có công năng giúp ta khôi phục sự toàn vẹn của con người ta, giúp ta trở nên tươi mát, ổn định, chăm chú để ta nhìn sâu vào bản thân và vào hoàn cảnh mà thấy rõ được thực tại của bản thân ấy và hoàn cảnh ấy. Cái thấy có khả năng giúp ta vượt thoát khổ đau và ràng buộc. Một khi đã trở nên thảnh thơi hơn và an lạc hơn, chúng ta sẽ không còn làm khổ người khác bằng cách hành xử và nói năng của chúng ta nữa, và chúng ta có thể bắt đầu chuyển hóa hoàn cảnh xung quanh và giúp kẻ khác được thảnh thơi và an lạc hơn. 


     Thiền tập có tác dụng trị liệu và chuyển hóa. Để có thể thực tập nhìn sâu và lắng nghe, chúng ta phải biết cách thức khôi phục sự toàn của con người chúng ta, biết cách thức trở thành tươi mát, ổn định và chăm chú. Năng lượng được sử dụng để làm công việc ấy là Chánh Niệm. Chánh Niệm có khả năng giúp ta ý thức được những gì đang có mặt, đang xảy ra trong ta và xung quanh ta. Chánh Niệm chiếu rọi ánh sáng trên đối tượng thiền quán, dù đối tượng ấy là một tri giác, một cảm thọ, một động tác, một phản ứng hoặc một hiện tượng sinh lý hoặc vật lý. 


     Chánh Niệm lại có khả năng nhìn sâu và hiểu thấu được tự tính và gốc rễ của đối tượng quán chiếu. Trong quá trình thiền quán, năng lượng Chánh Niệm được thường trực phát khởi, nuôi dưỡng và làm lớn mạnh. Chánh niệm giúp ta tiếp xúc thật sự với sự sống, nghĩa là với tất cả những gì đang xảy ra trong hiện tại, giúp ta sống sâu sắc cuộc đời của chúng ta, giúp chúng ta thực tập quán chiếu để nhìn sâu và lắng nghe.


    Hoa trái của sự thực tập nhìn sâu và lắng nghe là sự kiến Đạo, là giác ngộ, là giải thoát. Trong quá trình thực tập, những sợi dây ràng buộc (triền sử) từ từ được tháo mở, những nội kết khổ đau như sợ hãi, hận thù, giận dữ, nghi kỵ, đam mê,... từ từ được chuyển hóa, biên giới chia cách từ từ được tháo gỡ, và liên hệ giữa ta và người, giữa ta và thiên nhiên trở nên dễ dàng, sự thảnh thơi và niềm vui sống tự nhiên xuất hiện, và hành giả cảm thấy như là một đóa Sen búp đang từ từ hé nở. Thật ra, con người cũng là một loại hoa và có thể nở ra đẹp đẽ và tươi mát như bất cứ một loại hoa nào. Bụt là một đóa hoa người đã mãn khai, vô cùng tươi mát và xinh đẹp. Tất cả chúng ta đều là Bụt sẽ thành. 


     (Sư Ông Làng Mai)

    #Pháp Bảo trong trái tim con

NHỮNG QUYỀN LỰC NGẦM CHI PHỐI CHÍNH TRỊ MỸ (1): CHỦ NGHĨA NƯỚC MỸ XUẤT CHÚNG



Ghi chép ngắn từ “Nước Mỹ chuyện chưa kể” của Oliver Stone & Peter Kuznick

Chúng ta thường hình dung về nước Mỹ như một quốc gia lý tưởng mà ở đóng chính quyền phải tôn trọng các quyền tự do dân sự. Không ít người quan tâm tới tình hình thế giới đều đặt kỳ vọng rằng tổng thống Mỹ, chính quyền Mỹ sẽ mang lại tự do, dân chủ không phải chỉ cho người dân Mỹ mà còn cho cả thế giới. Niềm tin này chắc chắn sẽ bị thách thức khi họ đọc cuốn sử về nước Mỹ trong suốt thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 có tên “Nước Mỹ chuyện chưa kể” (Tên tiếng Anh: “The Untold History of United State”) của Oliver Stone và Peter Kuznick.


Hai tác giả của “Nước Mỹ chuyện chưa kể” bằng những chứng cứ được thu thập từ báo chí, văn bản hành chính, hồ sơ được giải mật… đã phơi bày những thế lực ngầm đã chi phối nền chính trị Mỹ mà trong đó đa số các tổng thống Mỹ chỉ là quân cờ cho các thế lực này. Thế lực ngầm này có thể là vô hình, có thể là đang hiện diện,… tất cả đều luôn tìm cách để bóp nghẹt các quyền tự do dân sự của người dân Mỹ và chắc chắn sẽ không mang lại quyền tự do dân sự cho người dân của các quốc gia khác. Đọc từng trang sách, tôi có thể khẳng định một điều rằng: người dân Mỹ muốn có được các quyền tự do của mình, họ buộc phải tự nhận thức, tự đòi hỏi, tự đấu tranh một cách ôn hòa để giành lấy. Quyền tự do không bao giờ là thứ mà các chính quyền tự “ban” cho người dân, kể cả khi chính quyền ấy luôn tuyên ngôn về tự do.


Nỗi ám ảnh về một nước Mỹ xuất chúng

Năm 1941, tài phiệt tạp chí Henry Luce đã tuyên bố rằng thế kỷ 20 là “thế kỷ Hoa Kỳ”. Qủa vậy, trong suốt thế kỷ 20, nước Mỹ đã vươn lên trở thành quốc gia số 1 thế giới về mọi mặt, và đến năm 1977, xu hướng ủng hộ một nước Mỹ bá quyền với quyền lực rộng khắp thế giới đã trở nên phổ biến. Đó là một nước Mỹ “đã tham chiến ở ba nước Hồi giáo và tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, hay còn được gọi mĩ miều là ám sát có mục tiêu, tại ít nhất sáu quốc gia khác”; “có căn cứ quân sự ở tất cả các khu vực trên địa cầu này, mà đếm sơ qua tổng số cũng đã hơn một nghìn”; “chi phí quân sự của Mỹ lại nhiều bằng tất cả các quốc gia khác trên thế giới cộng lại”; “sở hữu hàng ngàn vũ khí hạt nhân, rất nhiều trong số đó được đặt trong tình trạng sẵn sàng tuyệt đối dù không có quốc gia nào gây ra mối đe dọa cận kề”; “khoảng cách giàu nghèo tại Mỹ lớn hơn bất kì quốc gia nào trên thế giới”;  “một nhóm ít ỏi vài người – dù con số hiện nay là  300, 500 hay 2000 – lại kiểm soát của cải nhiều hơn 3 tỉ người nghèo nhất thế giới”; “một nhóm nhỏ vài người Mỹ giàu có lại có ảnh hưởng lớn đến thế đối với chính sách quốc nội, chính sách đối ngoại và truyền thông.” Nhưng đó cũng là một nước Mỹ “chưa hề có một chương trình chăm sóc sức khỏe toàn dân”; “phần lớn người dân đều thấy quyền lực thực sự và chất lượng cuộc sống của họ đi xuống”; người dân “chấp nhận, ở nhiều mức độ, sự giám sát, sự can thiệp của chính phủ, những quyền tự do của công dân bị lạm dụng, sự riêng tư bị xâm phạm”; “tỉ lệ người lao động tham gia công đoàn thấp nhất trong các nước dân chủ và công nghiệp phát triển”… Tất cả những vấn đề này, theo các tác giả của “Nước Mỹ chuyện chưa kể” “sẽ khiến các Tổ phụ Lập quốc và các thế hệ ông cha phải kinh hãi”. (trang 17-18)


Nếu như thời lập quốc, lý tưởng về sự tự do và bình đẳng được khẳng định trong Hiến pháp Mỹ, thì ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ, chính quyền Mỹ lại tôn sùng sự xuất chúng và để đạt được sự xuất chúng, họ sẵn sàng đạp bỏ lý tưởng về tự do và bình đẳng. Họ cười nhạo “bản thiết kế về một thế giới trù phú dựa trên khoa học và công nghệ, một thế giới nghiêm cấm thực dân và bóc lột kinh tế, một thế giới hòa bình và thịnh vượng được chia sẻ” do Cựu Phó Tổng thống Henry A. Wallace đề xướng là “mộng mơ” và “thiếu thực tế”. (trang 17).


“Chủ nghĩa nước Mỹ xuất chúng” (American exceptionalism) là các dùng từ mang tính chỉ trích của Joseph Stalin dành cho chủ thuyết cho rằng nước Mỹ luôn vượt trội hơn so với các quốc gia khác. Lấy cảm hứng từ cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, nhà khoa học chính trị Seymour Martin Lipsen đã gọi Mỹ là “quốc gia mới đầu tiên”; tiếp sau đó, sử gia người Pháp Alexis de Tocqueville đã mô tả nước Mỹ như một đất nước “đặc biệt”. Mặc dù “Chủ nghĩa nước Mỹ xuất chúng” là cách gọi mà “kẻ thù” của nước Mỹ đặt ra, nhưng nó vẫn phản ánh đúng thực trạng lịch sử về đức tin về một nước Mỹ vĩ đại hơn tất thảy các quốc gia khác trên thế giới.


Hai tác giả của “Nước Mỹ chuyện chưa kể” mở đầu cho những hình dung về một “nước Mỹ xuất chúng” bằng tuyên bố của tổng thống nổi tiếng Woodrow Wilson sau hòa ước Versailles: “Cuối cùng thế giới cũng biết được rằng nước Mỹ chính là cứu tinh của thế giới này”. Một thực tế được phơi bày: 58% người dân Mỹ đều tin rằng “Chúa trao cho nước Mỹ một vai trò đặc biệt trong lịch sử nhân loại”. Đây chính là trọng điểm mà Đảng Cộng Hòa luôn sử dụng để thuyết phục những cử tri của mình (trang 20-21). Không hề lạ khi tổng thống Barack Obama bị nhiều người coi là phản bội lại nước Mỹ khi ông từ chối lan truyền tư tưởng nước Mỹ là món quà của Chúa dành cho thế giới, và cũng không lạ khi Tổng thống Donald Trump sử dụng câu slogan “Make America great again!” cho chiến dịch vận động bầu cử của mình vào năm 2016.


Động lực về một nước Mỹ xuất chúng, một nước Mỹ vĩ đại đã luôn thôi thúc nước Mỹ phát triển thành một mô mình “đế quốc kiểu mới”, chưa từng có trong lịch sử. Mặc dù không chiếm lĩnh đất đai và kiểm soát dân số ở các quốc gia khác, nhưng nước Mỹ đã thúc đẩy sự kiểm soát kinh tế trên khắp thế giới và củng cố bằng quyền lực quân sự với vũ khí và trang thiết bị tối tân. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này ở phần sau về Quyền lực của tổ hợp công nghiệp quân sự.


Ngay từ cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa nước Mỹ xuất chúng đã nuôi mầm cho tính thượng đẳng của quân đội Mỹ. Trong cuộc “giải phóng” Phillipine khỏi sự xâm chiếm của thực dân Tây Ban Nha, những người lính Mỹ đã tàn sát những người Phillipine “mọi rợ” mà họ giải phóng. Thậm chí, họ không giấu được cơn hưng phấn trong những bức thư gửi về cho người thân: “Chúng con hăng máu kinh khủng và ai cũng muốn giết mấy đứa đen thui đó… Kiểu săn người này hay hơn săn thỏ rất nhiều”. Lý giải cho cuộc giết chóc này, Thượng nghị sĩ Albert Beveridge không ngần ngại tuyên bố rằng Phillipine mãi mãi thuộc về nước Mỹ, Thái Bình Dương thuộc về nước Mỹ và “cường quốc nào kiểm soát được Thái Bình Dương sẽ kiểm soát được thế giới”, Chúa đã chọn nước Mỹ để “cai trị thế giới”. (trang 31) Và rồi, sau khi giết chết 20.000 quân du kích, hơn 200.000 dân thường, chính quyền Mỹ thời bấy giờ vẫn tự tin rằng họ đã đem nền văn minh đến với những người lạc hậu.  Bắt đầu từ đây, nước Mỹ bước vào con đường của chủ nghĩa đế quốc. Từ năm 1900 đến 1925, một loạt các quốc gia xung quanh Thái Bình Dương bao gồm Cuba, Panama, Haiti, Nicaragua, Cộng hòa Dominican, Mexico, Guatemala, Honduras… liên tục bị can thiệp bởi quân đội và các tập đoàn của Mỹ. (trang 35,36)


Nhưng một sự thật hiển nhiên ít người chấp nhận đó là thế lực được lợi lớn trong ước ao “vĩ đại” và “xuất chúng” này của nước Mỹ lại không phải chính quyền Mỹ hay người dân Mỹ, mà là các nhà tài phiệt. Tập đoàn United Fruit Company là tập đoàn đầu tiên hưởng lợi từ những cuộc chiến “giải phóng” các quốc gia bị coi là lạc hậu và mông muội tại Mỹ Latin. Ngay sau khi Mỹ xóa tan ảo tưởng độc lập của người Cuba thì các tập đoàn United Fruit Company đã thu mua 1,9 triêu arce đất trồng mía với giá 20 cent/arce; và tính đến năm 1901 thì tập đoàn Bethlehem Steel đã chiếm 80% các mỏ khoáng tại Cuba. Những tập đoàn này chỉ chấp nhận những nhà cầm quyền địa phương ngoan ngoãn có lợi cho chính sách kinh tế của họ. (trang 34) Trong suốt quá trình can thiệp vào các nước Mỹ Latin, những tập đoàn này liên tục mở rộng khối tài sản khổng lồ của mình, tới mức hai tác giả của “Nước Mỹ chuyện chưa kể” phải thốt lên: “chiến tranh vẫn là “một chiếc vợt” hữu ích khi các binh đoàn và các chiến dịch tình báo vẫn được triển khai rộng rãi trên khắp thế giới để bảo vệ các lợi ích kinh tế và địa chính trị của giới tư bản Mỹ”. (trang 38) Và chính tổng thống Woodrow Wilson – người đã tuyên bố hùng hồn cho sứ mệnh cứu thế của nước Mỹ, cũng khẳng định một cách mạnh mẽ không giấu diếm rằng: “Không có gì khiến tôi quan tâm hơn việc phát triển trọn vẹn nhất thương mại Mỹ và quyền chinh phục chính đáng của Mỹ ở thị trường nước ngoài”. (trang 42) Một loạt các thủ pháp can thiệp đã được chính quyền Wilson thực hiện tại Mexico, bao gồm: phản đối chính quyền sở tại, lấy cớ chọn người tài nhúng tay vào bầu cử, “kèm cặp” chính quyền mới được dựng lên, đưa quân đội áp sát lãnh thổ để đe dọa, tăng đầu tư tài chính của các tập đoàn Mỹ tại quốc gia này để tiếp tục khai thác… (trang 43). Một loạt các hoạt động song hành giữa quân đội và các tập đoàn Mỹ là minh chứng hiện hữu trong thế kỷ 20 cho kết luận nổi tiếng của nhà văn chống lại thể chế toàn trị George Orwell: “Chiến tranh với nước ngoài chỉ diễn ra khi tầng lớp giàu có nghĩ rằng họ sẽ thu lợi từ nó”.


Trong suốt Thế chiến I, Mỹ tuyên bố “trung lập” và sự trung lập này đã mang lại nguồn lợi khổng lồ cho nước Mỹ thông qua buôn bán vũ khí cho cả hai phe thuộc Thế chiến I. Không chỉ vậy, Mỹ còn thực hiện một cuộc “buôn người thắng trận” bằng cách ở những thời điểm quan trọng, Mỹ đã cho phe Hiệp Ước vay số tiền 2,5 tỉ USD trong khi chỉ cho phe Liên Minh Trung Tâm số tiền 27 triệu USD. Đế chế tài chính của gia tộc Morgan đã “can dự sâu vào cuộc chiến bằng cách trở thành đại diện mua hàng duy nhất của chính phủ Anh từ 1915 đến 1917” và đã cung cấp tới 84% đạn dược của phe Hiệp Ước (trang 46). Kết thúc chiến tranh, nước Đức cũng phải trả một cái giá không hề nhỏ để đổi lấy hòa bình, và đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến Thế chiến II. Một lần nữa, đế chế tài chính Morgan lại can thiệp vào Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919 bằng cách ủng hộ Đức phải bồi thường 40 tỷ USD và đại diện tài chính của Wilson tại Hội nghị là  Thomas Lamont đã đảm bảo rằng quyền lợi của tập đoàn Morgan được đảm bảo. (trang 77).


Những năm 20s của thế kỷ XX, nước Mỹ đã thay thế vị trí của Anh – Pháp trên chính trường thế giới, các tập đoàn Mỹ vươn tay thao túng khắp thế giới, đặc biệt là các tập đoàn dầu mỏ. Khi “trung lập” và đứng ngoài quan sát cuộc chiến giữa Anh và Đức trong Thế chiến I, Mỹ đã nhận ra dầu mỏ là quyền lực kiểm soát thế giới khi thấy hai quốc gia này liên tục sử dụng chiến thuật cắt đứt nguồn cung dầu mỏ của nhau. Từ đó, Mỹ nhanh chóng cung cấp nguồn hàng dầu mỏ trong chiến tranh, chiếm tới 80% nhu cầu xăng dầu của phe Hiệp Ước trong thời chiến. Trước đó, công ty dầu Royal Dutch Shell của Anh đã chọn cách đầu tư chủ chốt tại Venezuela để khai thác dầu thay vì Mexico, và dung dưỡng nhà độc tài Juan Vincente Gómez biến đất nước này thành đồn điền riêng cho mình. Để soán ngôi Royal Dutch Shell, Standard Oil tại bang Indiana đã mua hai tập đoàn dầu của Mỹ tại Venezuela. (trang 79)


Chủ nghĩa nước Mỹ xuất chúng đã đi đến chiều hướng cực đoan khi tiệm cận với chủ nghĩa Phát Xít ở cuối thập niên  30s khi hiện thực hóa thuyết ưu sinh bằng các hoạt động triệt sản để thay đổi cơ cấu gen của dân Mỹ. Hai ông trùm Rockefeller và Carnegie đã cấp vốn nghiên cứu chương trình triệt sản để chọn lọc gen. Hitler đã ca ngợi sự đi đầu của nước Mỹ trong lĩnh vực ưu sinh như sau: “Tôi đã học hỏi một cách hào hứng các đạo luật của nhiều bang của Mỹ về việc ngăn chặn sự sinh nở của những người mà con cháu của họ chắc chắn không có giá trị hoặc sẽ gây hại tới chủng tộc.” (trang 126)


Tinh thần nước Mỹ xuất chúng, vượt trội với lý tưởng cứu thế trong suốt những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, một cách khôn khéo đã đưa nước Mỹ leo lên vị trí thống trị thế giới, và các tập đoàn Mỹ thì thao túng nền kinh tế toàn cầu với sự bành trướng không ngừng của các khối tài sản. Tinh thần này đến nay vẫn tiếp tục đang là ngọn cờ lý tưởng của chính phủ Mỹ mỗi khi can thiệp chính trị vào các quốc gia khác. Tinh thần ấy đã làm bùng dậy ngọn lửa giân dữ của thứ chủ nghĩa yêu nước cực đoan và chủ nghĩa khủng bố tại các nước không chấp nhân quyền lực tuyệt đối tại Mỹ. Tinh thần này cũng là thứ khiến nước Mỹ không thể chấp nhận được sự trỗi dậy của Trung Quốc và Nga trong thế kỷ 21, vốn đã thách thức vị trí số 1 của nước Mỹ, phá vỡ trật tự của một thế giới đơn cực mà Mỹ đã tạo ra trong suốt thế kỷ 20.


Hà Thủy Nguyên

3 BỘ PHẬN MÀU ĐỎ BÁO HIỆU TUỔI THỌ CAO




Điểm chung thường thấy ở những người sống lâu đó là các cơ quan trong cơ thể thường tương đối khỏe mạnh, tốc độ lưu thông máu tốt, biểu hiện là có màu "đỏ" hồng hào.


1. Môi đỏ


Đôi môi của chúng ta có hơn một triệu đầu dây thần kinh và nhạy cảm hơn nhiều so với các đầu ngón tay vì vậy nó sẽ lập tức thông báo các vấn đề về sức khỏe nếu cơ thể đang gặp trục trặc.


Nếu môi bạn trở nên nhợt nhạt bất thường nghĩa là cơ thể bạn đang hao hụt khí huyết, khiến môi đánh mất màu hồng nhạt tự nhiên. Người có đôi môi tím tái, nứt nẻ thường mắc các bệnh về máu, khí huyết ứ trệ không lưu thông tốt. Hoặc nếu như viền môi của bạn bất ngờ chuyển sang màu tối, sẫm màu nghĩa là bạn đang có vấn đề về thận và huyết áp cơ thể giảm.


Ngược lại, nếu bạn thấy màu môi của mình luôn hồng hào, căng bóng tức là tuần hoàn máu trong cơ thể thông suốt, cơ thể được thải độc tố kịp thời, tuổi thọ có thể được duy trì tốt.


2. Sắc mặt hồng hào


Không phải tự nhiên mà người xưa thường nhìn sắc mặt để đoán tình trạng sức khỏe bởi mỗi khi cơ thể hạnh phúc, khỏe mạnh hay ốm yếu đều để lộ rất rõ qua bộ phận này. Màu da của chúng ta được xác định bởi một số yếu tố, bao gồm: Lượng máu chảy vào da, độ dày của da, lượng melanin trong da...


Nếu cơ thể giảm lưu lượng máu, lượng oxy trong cơ thể thấp hoặc giảm số lượng hồng cầu thì khuôn mặt sẽ trở nên xanh xao, thiếu sức sống. Nhưng nếu bạn có nước da hồng hào và sáng bóng thì chứng tỏ cơ thể rất khỏe mạnh, tốc độ lưu thông máu tốt và tuổi thọ cao.


3. Móng tay hồng


Mỗi ngón tay của chúng ta đều là nơi tập trung dày đặc các dây thần kinh, đồng thời chính là nơi tiếp nhận nhiều phản hồi xúc giác nhất. Đó là lý do vì sao mà khi chẩn bệnh, các lương y xưa thường cầm tay bắt mạch.


Theo quan niệm của y học cổ truyền: Sức khỏe của móng tay liên quan mật thiết đến tình trạng dinh dưỡng, lượng vitamin lẫn tình trạng giải độc của cơ thể. Móng tay hồng hào bóng bẩy cho thấy khí huyết dồi dào, không thiếu canxi, cũng cho thấy trạng thái nội tiết cơ thể vẫn ổn định, bạn có tiềm năng trường thọ.


Ngược lại, nếu bạn là người có móng tay trắng bệch, dễ gãy nghĩa là cơ thể đang bị thiếu chất, móng tay màu vàng chứng tỏ đã mắc bệnh về gan...

TÌNH MẪU TỬ




Có một người thương gia, trước khi làm kinh doanh ông ta là một thợ săn, chuyên đi săn bắt rái cá.


Có một lần, ông ta vừa ra khỏi cửa thì bắt ngay được một con rái cá lớn, sau khi lột xong bộ da của nó, liền ném con rái cá vẫn chưa chết hẳn vào bụi cây.


Đến chiều tối, người thợ săn quay về chỗ bụi cây tìm con rái cá kia nhưng lại không thấy nó đâu. Sau khi tìm kiếm kỹ càng, người thợ săn phát hiện có vết máu lờ mờ dưới thảm cỏ, vệt máu kéo dài đến tận một cái hang.


Người thợ săn thò đầu nhìn vào trong hang và không khỏi ngạc nhiên: Thì ra con rái cá kia cố chịu nỗi đau bị lột da, cố gắng quay về tổ của nó. Nhưng tại sao nó lại làm như thế?


Sau khi kéo cái xác của con rái cá đã chết ra, người thợ săn mới phát hiện thấy hai con rái cá con vẫn chưa mở mắt, chúng vẫn đang cố gắng mút lấy sữa từ con rái cá mẹ đã chết từ lâu.


Chứng kiến cảnh tượng ấy, người thợ săn chết điếng, ông ta đã bị chấn động mạnh. Trước thời điểm đó, ông ta chưa bao giờ nghĩ rằng động vật cũng có thứ tình cảm mẫu tử thiêng liêng giống như con người, trước khi chết vẫn nghĩ phải cho con bú, sợ con mình phải chịu đói.


Nghĩ đến đây, người thợ săn không khỏi trào nên lòng xót thương, đau khổ tột cùng, cảm thấy hổ thẹn, tự trách, hối hận, khiến ông cảm thấy không có chỗ dung thân. Kể từ thời điểm đó, người thợ săn quyết định bỏ nghề, không làm thợ săn nữa, ông ra biển buôn bán.


🌹🌹🌹Từ câu chuyện của con rái cá đến tình cha mẹ - con cái thiêng liêng


Nhiều năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện năm ấy, ông vẫn không cầm được nước mắt.


Người xưa có câu: "Dê còn biết ơn quỳ bú, quạ còn biết nghĩa trở lại mớm nuôi".


Cha mẹ vất vả cực khổ nuôi lớn con cái, con cái chính là máu thịt của mẹ cha, là nỗi bận tâm lo lắng từ trong xương tủy.


Mỗi người chúng ta, cả đời này không oán trách không hối hận, chỉ nợ duy nhất hai người, đó chính là cha mẹ thân sinh ra mình.


Hiếu là việc đứng đầu trong trăm điều thiện, hiếu thuận với cha mẹ là công đức to lớn nhất trên thế gian. 

Người xưa từng nói: "Bất hiếu với mẹ cha, bái phật cũng vô ích", câu này có nghĩa là khi đã bất hiếu với cha mẹ, thì mọi công đức thờ Phật cũng chẳng có ý nghĩa gì.


Thời gian trôi qua vô tình, cha mẹ vẫn cứ ngày một già nua, chính là ghi lại những tháng năm vất vả, đằng đẵng đi cùng chúng ta.


Dù sau này chúng ta nghèo khó hay giàu sang, đều phải luôn cảm ơn ân nghĩa của mẹ cha, nhớ ơn cha mẹ đã ban cho chúng ta sinh mệnh này, nhớ những vất vả khó khăn trong cuộc sống bươn chải vì chúng ta, cảm ơn công lao dưỡng dục không tiếc cho đi của cha mẹ.


Cha mẹ chính là những vị Phật sống trên đời. Cha mẹ nuôi chúng ta khôn lớn, trên đời này không có bậc cha mẹ hoàn hảo, làm con thì không nên oán trách mẹ cha mà phải học cách kính trọng, hiếu dưỡng cha mẹ.


Cha mẹ vẫn còn, cuộc đời vẫn còn nơi để ta đến; cha mẹ mất rồi, đời này chỉ còn lại lối về.


Tấm lòng từ hiếu, ai cũng đều có, nhưng càng nên nuôi dưỡng ý nghĩ tận hiếu; đừng để đến khi mình muốn báo hiếu nhưng cha mẹ lại chẳng còn, để lại niềm hối hận to lớn nhất trong cuộc đời.


Chúng ta sống trên đời, tâm nguyện lớn nhất không phải là mong cha mẹ mãi luôn khỏe mạnh bình an hay sao? Tiền bạc, có thể từ từ kiếm, công việc, có thể chậm rãi làm nhưng thời gian sẽ không bao giờ đợi ai, chẳng hề lưu lại thời gian cho cha mẹ, cha mẹ cũng cần có chúng ta quan tâm, cần chúng ta ở bên bầu bạn, cần có chúng ta chăm sóc.


Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn báo hiếu mà cha mẹ chẳng còn, thế nên hãy nhân lúc cha mẹ vẫn còn khỏe mạnh, hiếu thuận hơn với họ, đừng để đến khi mất đi rồi, mới hiểu được trân trọng là thế nào.


ST

A mother

 Người phụ nữ trong hình chính là mẹ của tỷ phú giàu nhất thế giới Elon Musk. Bà là người mẫu 72 tuổi Maye Musk cho tới nay vẫn rất đắt giá vì các chương trình biểu diễn và chụp hình.



Bà vốn là mẹ đơn thân có 3 con, ngoài tỷ phú còn có đạo diễn phim Tosca Musk và chủ nhà hàng doanh nhân Kimbal Musk. 3 con của bà rất thành công.


Maye Munk, sinh năm 1948, là người gốc Canada nhưng di cư sang Nam Phi cùng cha mẹ bằng một chiếc máy bay cá nhân. Theo New York Times, vào năm 1952, khi mới chỉ 4 tuổi, bà đã cùng cha mẹ bay 22.000 dặm vòng quanh thế giới. Lớn lên, Maye và gia đình đã đi lang thang trên sa mạc Kalahari để tìm kiếm "Thành phố đã mất". Cũng chính nhờ những bậc cha mẹ thích phiêu lưu mạo hiểm này, bà đã tìm thấy sự tự tin của mình để theo đuổi sự nghiệp trong thế giới thời trang. 


15 tuổi, bà trở thành người mẫu, thi Hoa hậu Nam Phi và lọt vào vòng chung kết. 6 năm sau, 21 tuổi, bà rơi vào tiếng sét ái tình với kỹ sư Errol Musk và từ bỏ tất cả để trở thành vợ của ông. Trong vòng 10 năm, bà sinh 3 con. Nhưng hôn nhân tan vỡ khi bà mới 31 tuổi. Bà trắng tay mặc dù gia đình chồng rất giàu có.


Từ giã Nam Phi, bà một thân một mình đưa ba con về Toronto, Canada.  Đây cũng chính là quãng thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời của Maye. Đã có khi bà phải làm cùng một lúc 5 công việc để kiếm tiền nuôi dạy các con: từ làm thêm tại tiệm tạp hóa và giặt ủi, nhân viên nghiên cứu cho Đại học Toronto, dạy học tại trường dinh dưỡng cho đến làm người mẫu. Maye từng nói với Huffington Post rằng: "Sau khi ly hôn, tôi phải vật lộn để kiếm sống và nuôi 3 đứa trẻ. Nghèo đói khiến bạn làm việc chăm chỉ."


Khi Maye 41 tuổi, nghề người mẫu lúc ấy không còn "hot" nữa, bà phải vất vả kiếm tiền thuê nhà và học phí cho các con bằng nhiều cách khác nhau. Quãng thời gian này, gia đình bà thậm chí còn chẳng có tiền để mua thịt cho bữa cơm tối.


Khi đó, một người khách hàng của Maye, chủ một lò mổ gia súc đã thương cảm cho hoàn cảnh của bà và quyết định cung cấp cho gia đình bà một khoanh thịt khổng lồ vào mỗi tháng. Bà Maye sẽ cắt khoanh thịt thành 4 miếng để ăn trong 4 tuần.


Trong khi đó, các con của bà cũng làm một phần để hỗ trợ gia đình. Tosca làm việc tại một cửa hàng tạp hóa cao cấp khi còn đi học và Maye Musk đã giúp Elon có một công việc tại Microsoft.


Dù vậy, bà vẫn rất kiên nhẫn dạy con nên người. Cùng lúc, bà đi học . Bà theo học ngành dinh dưỡng tại Đại học Pretoria ở Nam Phi và được trao hai bằng thạc sĩ, một từ Đại học Orange State, Nam Phi và một của Đại học Toronto, Canada.


Kết quả từ sự nỗ lực không ngừng của bà, 3 con bà rất thành đạt, trong đó có tỷ phú giàu nhất thế giới. Và dù già, ở tuổi 72 bà vẫn tiếp tục hành nghề người mẫu vì yêu thích và muốn được trẻ trung.


Người phụ nữ này luôn thử thách những điều mới mẻ và không bao giờ bị tuổi tác cản trở. Chính tinh thần đó không chỉ làm nên cuộc đời Meyer mà còn trở thành ánh sáng của 3 đứa con. "Hãy để trẻ đủ can đảm khám phá cuộc sống của chúng". Người phụ nữ này cũng cho rằng cách giáo dục hữu ích nhất cho trẻ là để chúng thấy rằng bố mẹ đang nỗ lực để trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. "Đó là cách tốt nhất để giáo dục con cái"


Một người mẹ xứng đáng của những đứa con xứng đáng


Từ fb Nguyễn Thị Bích Hậu

ĐẬU PHỤNG RANG HÚNG LÌU




Hôm trước tiện đường ghé vào một tiệm bán đặc sản Hà Nội ở đường Trần Quốc Toản mua ít trái cây. Thấy tiệm có bán lạc rang húng líu, mua liền một gói lớn. Nhớ hồi nhỏ ở Đà Nẵng, có một ông già Tàu bán món này. Đó là một ông người Hoa khoảng năm sáu chục tuổi, người hom hem, mặc bộ đồ “xá xẩu” đen, có khi màu xám cũ kỹ. Áo có hai vạt như áo cánh, tay lửng, nút áo bằng vải, cài ở giữa, ông mặc cái “quần tiều”, dài quá đầu gối một chút, ống rộng. Ông đội cái nón rộng vành đan bằng tre, đỉnh nón nhọn, nhìn giống như các hiệp khách giang hồ trong phim kiếm hiệp Hong Kong. Ông mang trước ngực một thùng thiếc vuông, có lẽ là thùng bánh biscuit Lu, một loại bánh Tây nổi tiếng thời ấy. Trong thùng đựng đậu phụng rang. Khi có khách, ông lấy ra một gói giấy cuốn nhọn đầu bé tí, bỏ vào khoảng hai chục hạt đậu rang. Ít thế nên ăn lúc nào cũng còn thèm. Ăn đậu rang ớn nhất là ăn phải hạt đậu thối, hạt đậu mốc. Nuốt thì ngán mà nhổ ra nhiều khi mất lịch sự, đành nuốt mà ghê ghê. Đậu của ông này chắc được lựa kỹ, không bao giờ bị gặp đậu hư. Đậu rang của ông thơm húng lìu, mùi từa tựa như ngũ vị hương. Sau này lớn lên, thích nghiên cứu ẩm thực tui mới biết húng lìu là một loại bột thơm dùng làm gia vị tẩm ướp cho các loại thịt, các món ăn giúp làm tăng thêm hương vị. Trong húng lìu, thành phần chính gồm có hột cây húng dổi, bột quế, thảo quả, đinh hương và quế. Tùy thuộc vào tỉ lệ và cách trộn mà húng lìu có những hương vị hơi khác nhau một chút. Cách rang cũng quyết định độ ngon dở của món đậu phụng rang húng lìu.

Đâu phụng rang húng lìu của ông này ngon lắm, thơm, bùi, béo giòn ăn mãi không ngán. Nó có một mùi thơm rất đặc biệt. Nó cũng là món ăn vặt của tuổi thơ tui. Sau này, lần đầu ra Hà Nội, tui cũng được thưởng thức món lạc rang húng lìu có mùi vị y chang thế. Theo lời mấy người quen ngoài đấy thì món lạc rang là đặc sản của Hà Nội.


Hôm ấy thấy tiệm bán món này, chợt nhớ món ăn khoái khẩu của thời bé, liền mua ngay. Đem về ăn thất vọng quá, không khác gì đậu phụng rang bình thường, chẳng có chút mùi vị của húng lìu. Định tìm lại mùi vị của năm tháng cũ mà không thấy, đành viết vội vài câu để nhớ món húng lìu của ông Tàu già, một thời xa lắc.

19.1.2021

DODUYNGOC

#MONANDODUYNGOC

Thursday, January 14, 2021

11 PHƯỚC LÀNH CỦA NGƯỜI CÓ LÒNG TỪ BI




1-Phước lành thứ nhất là khi ngủ, chúng ta được ngon giấc.


2-Phước lành thứ hai là khi thức giấc, chúng ta được bình an


3-Phước lành thứ ba là khi ngủ, chúng ta không gặp ác mộng.


4-Phước lành thứ tư là chúng ta được loài người thương yêu.


5-Phước lành thứ năm là chúng ta được loài vật thương yêu.


6-Phước lành thứ sáu là chúng ta được chư thiên bảo hộ.


7-Phước lành thứ bẩy là chúng ta không bị tổn hại vì lửa, thuốc độc, và vũ khí.


8-Phước lành thứ tám là chúng ta dễ dàng tập trung tâm ý.


9-Phước lành thứ chín là chúng ta có da dẻ, và gương mặt không buồn phiền, luôn được bình an.


10-Phước lành thứ mười là khi chúng ta chết, tâm trí không bị rối loạn.


11-Phước lành thứ mười một là khi tái sinh, chúng ta sẽ lên cõi trời, hay các cõi tốt đẹp hơn.


Trích Tăng Chi Bộ Kinh

#vothuong #tamtuyduyen #phuoclanhlongtubi

NI SƯ JEONG KWAN: “TÔI NẤU THỨC ĂN CHO TÂM TRÍ”




Hà Thủy Nguyên


Bạn là những gì bạn ăn, cũng như bộ quần áo nói lên con người bạn. Bạn cũng là những gì bạn tạo tác.


Đối với ni sư Jeoung Kwang, người được New York Times vinh danh là “đầu bếp triết gia”, sáng tạo các món ăn thể hiện “cấp độ thiền định”. Và với thiền định, bà không tĩnh tọa hay chiêm nghiệm, mà là khám phá: khám phá con người và vạn vật xung quanh.


“Tôi không phải đầu bếp”, Jeong Kwan cho biết trong cuộc phỏng vấn của Thời báo Hàn Quốc tại am của bà ở Chùa Baekyangsa phía nam tỉnh Jeolla ngày 29 tháng 5 năm 2017, khi được hỏi về biệt danh mà những người nước ngoài đặt cho bà. “Tôi là một người tu hành. Tôi bất biến. Đây là nơi tôi thuộc về”


Bà cũng phủ nhận những tin đồn rằng bà mở nhà hàng ở nước ngoài.


“Tôi không có năng lực và cũng chẳng quan tâm đến làm kinh tế. Nơi chốn của tôi là tại đây,” bà nói một cách cương quyết.


Jeong Kwan nổi tiếng cả ở trong và ngoài nước như một đạo sư về ẩm thực. Bạn đạt được sự công nhận của quốc tế sau khi được mời tới New York để nấu ăn cho một nhóm nhà báo tại nhà hàng Le Bernardin của đầu bếp ba sao Michelin, Eric Ripert. Sau khi các nhà phê bình ẩm thực tán dương những món của bà, tên bà đã được lan truyền. Vào tháng Hai năm nay (tức năm 2017), bà lần đầu được mời với tư cách là một ni sư tới Liên hoan phim quốc tế Berlin, nơi tập phim về bà trong TV series “Chef’s Table” được trình chiếu.


“Nếu đầu bếp nấu ăn cho cơ thể, tôi nấu ăn cho tâm trí”, Jeong Kwan nói.

“Thức ăn nhà chùa kết nối cơ thể và tâm trí, năng lượng vật lý và năng lượng tinh thần. Bởi vì điều này rất quan trọng trong thiền định, nó không nên trở thành cản trở. Ăn đồ ăn tốt rất quan trọng. Nó cần được nấu từ nguyên liệu đúng mùa, với sự giản đơn, và giảm thiểu tối đa gia vị”


Theo Jeong Kwan, thiền định bao gồm toàn bộ hành trình từ thu hoạch, nấu nướng và thưởng thức chúng.


“Con người tạo ra hương vị. Điều đó có nghĩa là chúng ta cần biết phẩm tính của các nguyên liệu. Chúng ta cần biết khi nào một quả dưa chuột hay một quả cà tím vào độ ngon nhất. Chúng ta cần biết khi nào thu hoạch, làm sao để bảo quản, thái nó ra như thế nào, cho bao nhiêu muối thì đủ. Hương vị khác nhau ra sao khi ta cắt chúng với các kích cỡ khác nhau? Chúng ta cần liên tục quan sát cây cối và khám phá đặc tính tự nhiên của chúng”, Jeong Kwan giảng giải.


“Dưa chuột xuất xứ từ đâu, nó lớn lên như thế nào, nó đã qua miệng ta thế nào? Khi nó bị tiêu đi trong dạ dày của ta, chúng ta cần trồng lại những lô dưa chuột mới. Chúng ta sẽ làm thế bằng cách nào? Chúng ta sẽ ăn, tiêu hóa và tái tạo ra sao? Sự quan sát những nguyên liệu và trạng thái thiền định luôn song hành. Bạn càng thiền định nhiều, bạn càng khám phá nhiều.”


Cấp độ khám phá phụ thuộc vào độ sâu của thiền định.


“Giống như các đầu bếp tạo ra những vũ trụ trên đĩa của mình, sự thay đổi trong thức ăn chúng ta nấu phụ thuộc vào cấp độ thiền định”. Bà nói.

“Nếu một đầu bếp nấu nướng để kiếm sống, thật khó để sáng tạo. Nhưng khi chúng ta nấu nướng để thiền định, sự sáng tạo là vô hạn. Năng lượng hôm nay và năng lượng ngày mai khác nhau. Tri giác về thức ăn và nguyên liệu phụ thuộc vào sự trong sạch trong trái tim và tâm trí bạn.”


Thức ăn nhà chùa có thể mang đặc trưng cơ bản thuần chay, nhìn từ bên ngoài. Các thầy tu Phật giáo không ăn thịt hay sản phẩm bơ sữa. Họ hiếm khi ăn trứng, nhưng đó dường như là tất cả những gì có trong ẩm thực chay. Và như nhiều người đã biết, họ không ăn tỏi hay các loại gia vị bởi vì chúng mang đến năng lượng dư thừa gây kích thích cơ thể.


“Chúng tôi không ăn thịt bởi vì đức tin về tái sinh. Bò, lợn hay gà mà chúng ta giết có thể là bố mẹ, con cái hay bạn bè của ta. Cũng có thể là chúng ta khi chúng ta chết đi. Chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm thế nào vì những hậu quả từ việc giết hại chúng? Chúng ta sẽ làm gì với năng lượng tiêu cực được tạo ra trong quá trình đó?”


Nhưng điều đó không có nghĩa rằng thịt bị cấm hoàn toàn đối với những người theo đạo Phật.


“Có ba nguyên tắc cần tuân thủ khi tiêu thụ thịt: 1/ Bạn không tự giết thịt; 2/ Bạn không chọn từ khu chăn nuôi; 3/ Bạn không yêu cầu người khác giết động vật được nuôi cho bạn. Điều này có nghĩa là bạn có thể ăn thịt động vật đã bị giết và bán ở chợ.” Jeong Kwan nhắc nhở.


“Dù vậy, có nhiều cách để nạp protein và chất béo mà  không cần ăn thịt. Nó có nguồn gốc thực vật, như đậu, dầu được chiết xuất từ cây cối hoặc rau lên men. Khi rau tiếp xúc với nhiệt và không khí, chúng được chuyển hóa hoàn toàn về tính chất.”


Trở thành một người ăn chay, dù sao đi nữa, không nên là một xu hướng hay một nguyên tắc, mà phải là một thứ gì đó thật tự nhiên để nó thành một phần trong bạn.


“Chế độ chay giúp một người quay lại với tự nhiên. Nó giúp con người tìm thấy tự tính của mình mà không hề bị biến dạng. Những người ăn chay thường có tính cách ôn hòa hơn”, bà cho hay.


“Đó là một chế độ ăn được khuyến khích nhưng mọi người nên quên đi thực tế rằng mình là người ăn chay. Họ không nên bị ám ảnh với các nguyên tắc. Nó phải đến một cách tự nhiên, và họ sẽ thích ứng với tự nhiên.”


Bà than thở rằng con người hiện đại đang đi ngược lại tự nhiên.


“Con người bị bệnh bởi vì Trái Đất đang bệnh. Họ cần tìm cách cứu Trái Đất và tự cứu chính mình. Họ cần khám phá logic của tự nhiên. Thực phẩm tự nhiên, đó là khỏe mạnh và hạnh phúc,” vị ni sư nói.


Bà khuyên thị dân hãy ra ngoài với tự nhiên để khám phá trật tự của nó.


“Họ cần phải ra ngoài dù chỉ một lần trong tuần hoặc tháng để trải nghiệm. Họ cần biết họ đang ăn gì. Thực phẩm chính là thuốc. Nếu bạn ăn đồ ăn đóng gói, nó không có tính năng chữa lành. Trước khi ai đó chọn lựa liệu rằng mình có nên ăn chay hay không, họ cần nhận thức rằng tại sao điều đó lại cần thiết.”


 Yun Suh-young


Hà Thủy Nguyên dịch

Kindness

 Kindness is an attribute that we all have but to feel stronger over others, many become inconsiderate. They feel that being kind is a sign of weakness.



Sometimes when one person is being kind, others feel they can suppress them because that person won’t reciprocate. They feel that they can easily take an advantage to fulfil their self interest. A kind person might be soft and gentle hearted but is never a weak person. Kindness is actually a sign of greater strength. A kind person is able to put their own needs aside to help those who are more in need. It is only a kind heart who tries to understand other people’s pain before they feel their own. A kind heart is a big heart that is willing to give and share what it has. When such people take a stand, they can even change and heal an unkind heart.


Never take advantage of those who are kind. Kind people are healers and we need more such people to heal the world.


Dr Bhawna Gautam

#kind #strength #never #weak #people #self #wisdom #positivity