Saturday, October 31, 2020

Lịch sử bí ngô vào ngày lễ Halloween

 Lịch sử bí ngô vào ngày lễ Halloween🎃🎃🎃



Truyền thống đục các loại củ quả theo hình mặt người xuất phát từ người Xen-tơ (Celts). Đây là một bộ tộc cổ, sinh sống chủ yếu ở vùng Tây Âu, bao gồm Brittany, Cornwall, Wales, Scotland, Ireland, và Đảo Man.


Bản thân từ “Halloween” có xuất xứ từ Thiên Chúa Giáo, đó là từ kết hợp của hai từ Hallows Eve (ngày lễ thánh hóa hay còn gọi là ngày lễ các thánh) diễn ra vào ngày đầu tiên của tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn đã qua đời. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng ngay từ thế kỷ 5 trước công nguyên người Celtic ở Ai-len đã kỷ niệm ngày này vào ngày 31/10, tức là ngày cuối cùng của mùa hè như là một nghi lễ mừng năm mới.

Trong văn hóa tâm linh người Xen-tơ, từ ngày 31 tháng 10 cho đến ngày 1 tháng 11 chính là lúc linh hồn của những người đã chết năm đó sẽ biến mất. Vì thế, thời điểm này ma quỷ sẽ xuất hiện rất nhiều. Chúng quẩn quanh các đống lửa mà người Xen-tơ dựng lên giữa cánh đồng để ăn mừng vụ mùa và chào đón mùa đông sắp đến. Họ tin rằng chỉ có ánh sáng mới bảo vệ được họ trên đường ra cánh đồng, nên họ bắt đầu đục lỗ củ cải theo hình mặt người, khoét bỏ ruột và đặt một cây nến bên trong để làm đèn dẫn đường. Ánh sáng chiếu qua “mắt”, “mũi”, “miệng” của củ cải sẽ khiến ma quỷ sợ hãi và bỏ đi. Chiếc đèn này cũng là thứ giúp cho những người đi đường và linh hồn của những người tốt biết phương hướng trở về nhà.


Chiếc đèn lồng bằng củ cải đó về sau được đặt tên theo Stingy Jack — một người nông dân hà tiện sống ở vùng đất Ireland. Một hôm, Jack mời quỷ cùng đi uống rượu và đến khi phải trả tiền, Jack gạ quỷ tự biến thành tiền để trả cho người bán hàng. Vì bản tính láu cá, Jack liền bỏ ngay đồng tiền vào túi có chiếc thánh giá nên quỷ không thể trở lại nguyên hình được nữa.


Khi quyết định bỏ cây thánh giá ra khỏi túi để quỷ trở về hình dạng ban đầu, Jack đã đưa ra điều kiện rằng quỷ không được quấy nhiễu mình trong suốt 1 năm. Và nếu Jack chết, quỷ cũng không được thu hồi linh hồn của mình. Hết một năm giao kèo, vì sợ quỷ trở mặt, Jack lừa quỷ leo lên cây táo hải quả. Trong lúc quỷ loay hoay trên cây thì Jack khắc ngay hình thánh giá vào gốc khiến quỷ hoảng hốt không dám leo xuống. Lần này, Jack lại đưa ra thỏa thuận là quỷ không được trêu chọc anh trong thêm 10 năm nữa thì anh mới giải thoát cho quỷ.


Một thời gian sau đó, Jack chết. Hồn ma của Jack đến gõ cửa thiên đường nhưng Thượng đế không cho vào vì Jack đã nhiều lần lừa đảo với cả quỷ dữ. Jack bèn tìm xuống địa ngục nhưng vì giữ lời hứa, quỷ không bắt hồn Jack và đuổi anh đi. Thấy Jack đáng thương, quỷ đã cho Jack một cục than hồng để dò đường trong đêm tối. Jack bỏ cục than vào trong một củ cải rỗng ruột và từ đấy mãi lởn vởn khắp dương gian.


Người Ireland lan truyền câu chuyện thần thoại đó và bắt đầu đặt các củ cải được đục lỗ ở cửa sổ của họ để ngăn Jack hà tiện và những con quỷ khác vào nhà. Sau này, khi người Ireland nhập cư vào Mỹ, họ nhận thấy ở Mỹ có rất nhiều quả bí ngô to, tiện lợi để đục hình mặt người nên họ đã coi bí ngô là loại quả lý tưởng để làm đèn Jack O’Lantern.


Đến nay, có rất nhiều biến thể khác nhau về câu chuyện quả bí ngô trong ngày lễ Halloween. Tuy nhiên, tất cả đều xoay quanh một ý nghĩa rằng chiếc đèn này sẽ giúp con người tránh khỏi tà ma và sự xâm nhập của quỷ dữ.


(Sưu tầm trên mạng.)

Wednesday, October 28, 2020

THƯ GỬI HỌC SINH CỦA THẦY HIỆU TRƯỞNG MỘT TRƯỜNG HỌC VÙNG LŨ HUYỆN QUẢNG NINH - QUẢNG BÌNH (nên đọc)

 





Thân gửi các em học sinh!
Vậy là nước lũ đã rút, nhiều gia đình đang cố gắng dọn dẹp nhà cửa, đồ đạc, và thầy biết nhiều em cũng đang sắp xếp áo quần, sách vở - dù không còn nhiều để xếp - chuẩn bị ngày mai đi học trở lại.
Ngày mai đi học, các em không nhất thiết phải mặc đồng phục, không nhất thiết phải áo trắng, áo dài và nếu có ố vàng một chút cũng không sao, đừng quá tự ti, đừng quá lo lắng, miễn là áo quần đủ khô, đủ ấm em nhé!
Ngày mai đi học, các em không nhất thiết phải mặc dép có quai hậu (như quy định của Đoàn trường), chỉ cần có cái để xỏ vào chân, bùn lấm một tí cũng được, sứt mẻ một tí cũng được, miễn là đủ để ngăn rác bẩn hay cây gai đâm vào chân, em nhé!
Ngày mai đi học, các em nhớ dậy sớm một tí, đề phòng chiếc xe yêu thích ngày nào bỗng dưng "dở chứng", mình có thể làm một cuốc "bộ hành" giữa trời thu xanh mát, hoặc có thể ra đường ngóng chúng bạn "hốt-dùm-tui-đi", và nếu trễ một chút cũng không sao, miễn là đi đủ chậm và an toàn, thấy ai trách thì nhớ mỉm cười và cúi đầu xin được thông cảm, em nhé!
Ngày mai đi học, nếu chưa có đủ sách vở hoặc bút viết, xin các em đừng quá lo lắng, thầy cô còn có nhiều bài học làm người, bài học cho tinh thần tương thân tương ái, bài học về giá trị cốt lõi của học trò trường QuảngNinh mà đôi khi các em chỉ cần dùng trái tim để "learn by heart" mà không phải ghi chép gì nhiều, em nhé!
Ngày mai đi học, nếu cũng không còn cặp sách để đựng đồ cũng không sao, các em có thể bỏ tất cả vào một bao ni lông, cột thật chặt, và nhớ ghi rõ tên và trường để bà con gửi trả về nếu lỡ nước có cuốn trôi, em nhé!
Ngày mai đi học, khoan hãy học bài cũ, các em có thể dành thời gian hỏi han bạn bè, thầy cô sau đợt lụt vừa rồi, và nhớ đừng chê cười nếu như học trò của mình mặc đồ không được đẹp, đi dép không được "mốt" hay thấy một bao ni lông lăn lốc trong góc bàn cuối lớp, em nhé!
Ngày mai và nhiều ngày tới nữa, các nhà hảo tâm cũng sẽ đến với các em (như họ đã "hứa" với thầy cô), thầy mong các em biết trân quý những đồ dùng mà mình nhận được, nếu có hơi cũ, hơi rách tí thì cũng mong các em hiểu, đó không chỉ là cuốn vở, tấm áo mà còn cả tấm lòng tương thân tương ái của các Bác, các O, các Chú, các Anh Chị Em, và đặc biệt từ các bạn Học sinh cùng trang lứa từ mọi miền khắp cả nước, các bạn học sinh ấy, dù còn nhiều nghèo khó nhưng vẫn đóng góp ủng hộ một vài cuốn vở hay 10k, 20k... Họ đã dành cho đồng bào miền Trung nói chung và Trường chúng ta không chỉ tiền của, sức lực, thời gian, không chỉ sự cho-nhận thông thường, mà còn cả tấm lòng yêu thương đến nghẹn lòng, em ạ!
Và cuối cùng, ngày mai đi học, thầy mong các em vẫn bình tĩnh, tự tin và mỉm cười, còn người là còn của, đừng quá lo lắng, đừng quá bi quan, thua keo này ta bày keo khác, chỉ cần cố gắng từng tí một, vượt qua những trở ngại trước mắt, không ngừng học tập, và thầy tin, tươi sáng sẽ sớm đến với chúng ta!
Chào mừng các em Học sinh trở lại
Yêu và thương các em thật nhiều!
💗💗💗
Thầy giáo làng của các em.
27.10.2020
Facebook: Hà Quý
Ảnh sưu tầm: thầy cô và phụ huynh đang dọn dẹp bùn, chuẩn bị học lại.

Monday, October 19, 2020

Máu sam biển – nguồn lợi sẵn có tại Việt Nam có giá ngàn đô

 



Máu sam biển – nguồn lợi sẵn có tại Việt Nam có giá ngàn đô


Nhắc đến Sam biển, nhiều người chỉ biết đó là một trong những món hải sản độc đáo và khá kỳ công trong việc chế biến. Nếu để thưởng thức thì giá của loại hải sản này không đắt đỏ, thế nhưng máu Sam lại có giá trị rất lớn, nhất là trong lĩnh vực y tế với những công dụng tuyệt vời.


Sam biển (Cua móng ngựa) là một loài động vật chân đốt thuộc họ Limilidae. Tồn tại trên Trái Đất từ cách đây 450 triệu năm, loài cua này còn được mệnh danh là những hóa thạch sống. Máu của chúng có màu xanh da trời. 


Và có thể bạn chưa biết, thứ chất lỏng đó là một trong những nguồn tài nguyên đắt nhất thế giới. Mỗi lít máu cua móng ngựa có giá khoảng 16.000 USD, tương đương 370 triệu VNĐ. Nhưng tại sao nó lại đắt đến vậy?


Thứ làm nên màu xanh trong máu cua móng ngựa chính là đồng. Nhưng bạn không thể khai thác đồng trong một lít máu mà lãi tới hơn 370 triệu được.


Hợp chất đắt giá nhất mà những con cua móng ngựa nắm giữ trong máu mình là Limulus amebocyte lysate (LAL), chất đông máu duy nhất được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ bắt buộc sử dụng cho các thử nghiệm độ an toàn của vắc-xin.


Trước khi biết đến LAL, các nhà khoa học không hề có cách nào để biết vắc-xin họ sản xuất ra, hoặc các dụng cụ y tế mà họ đang sử dụng, có bị nhiễm khuẩn hay không. Để kiểm tra điều đó, họ phải tiêm trước vắc-xin vào những con thỏ, và chờ đợi xem chúng sống chết ra sao, có xuất hiện triệu chứng nhiễm trùng hay không.


Cho đến năm 1970, phát hiện về LAL đã thay đổi toàn bộ quy trình thử nghiệm đó. Một nhà khoa học bây giờ chỉ cần nhỏ một lượng cực nhỏ LAL vào vắc-xin hoặc dụng cụ y tế. Nếu vi khuẩn gram âm xuất hiện trong đó, LAL sẽ bao chúng lại bằng một cái kén thạch nhìn thấy được.


Mặc dù kén thạch này không tiêu diệt vi khuẩn, nhưng nó là hoạt động như một chiếc chuông báo cháy. LAL thông báo cho chúng ta biết về sự hiện diện của mầm bệnh, về khả năng nhiễm trùng có thể gây tử vong nếu vẫn sử dụng vắc-xin hoặc dụng cụ y tế nhiễm khuẩn.


Với tính chất đặc biệt ấy, FDA yêu cầu mọi công ty dược phẩm phải kiểm tra vắc-xin của mình với LAL trước khi đưa ra thị trường. Để có được lượng LAL cần thiết, mỗi năm Hoa Kỳ phải bắt tới 600.000 con cua móng ngựa.


Chúng được đưa vào nhà máy, trích 30% máu sau đó thả trở lại tự nhiên. Chuyến ghé thăm hiến máu cho con người kéo dài từ 24-72 tiếng đồng hồ. Và không phải con cua nào cũng có thể sống sót sau thủ thuật khắc nghiệt ấy.


Có khoảng 30% số lượng cua sẽ chết ngay trong quá trình rút máu. Trong khoảng vài ngày sau đó, sẽ lại có từ 10-25% cua móng ngựa tiếp tục chết vì thiếu máu. Ngay cả khi sống sót, những con cua này nhiều khả năng cũng gặp vấn đề trong việc xác định phương hướng hoặc sinh sản.


Chỉ có những con cua móng ngựa sống trên 2 tuần sau khi mất máu mới có thể hồi phục và tiếp tục sống khỏe mạnh sau đó.


Các nhà khoa học biết nguồn tài nguyên từ máu cua móng ngựa rất quan trọng đối với ngành dược phẩm. Bởi vậy, hoạt động bảo tồn loài cua này rất được chú trọng.


Con người cần bảo tồn cua móng ngựa, nếu không muốn mất đi một nguồn tài nguyên quan trọng


Khai thác máu cua móng ngựa trong hàng thập kỷ đã khiến quần thể loài sinh vật này giảm sút. Trong 40 năm tới, các nhà khoa học ước tính một lượng 30% cua móng ngựa sẽ biến mất.


Năm 2016, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đã buộc Mỹ đưa loài cua này vào sách đỏ. Nhiều nhóm vận động bảo đang kêu gọi ngành dược phẩm đối xử nhân đạo với những con cua, trong khi đó, cấm hoàn toàn việc sử dụng loài cua này làm mồi câu cá.


Với những động thái này, quần thể cua móng ngựa ở Nam Carolina đang có dấu hiệu hồi phục trở lại. Bảo vệ loài cua cổ xưa chính là bảo vệ sự an toàn cho những liều vắc-xin của chúng ta.


Từ fb Chau Nguyen Thi

Wednesday, October 14, 2020

CON NUÔI



Cô giáo dạy lớp một Debbie Moon đang thảo luận với các em học sinh về bức tranh vẽ một gia đình. Trong tranh, một cậu bé có màu tóc khác hẳn với màu tóc của các thành viên còn lại trong gia đình.


Một học sinh nhận xét cậu bé đó là con nuôi và cô bé Jocelynn Jay lên tiếng phát biểu:


“Mình biết rất rõ về con nuôi vì mình cũng là con nuôi mà.”


“Thế con nuôi có nghĩa là gì?” một học sinh khác hỏi.


“Con nuôi có nghĩa là thay vì bạn được sinh ra từ trong bụng mẹ, thì bạn được nuôi dưỡng và lớn lên từ trong trái tim của mẹ.” Jocelynn kiêu hãnh trả lời.

Tuesday, October 6, 2020

KHÔI PHỤC ĐÈN LỒNG TRUNG THU CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

 KHÔI PHỤC ĐÈN LỒNG TRUNG THU CỔ TRUYỀN VIỆT NAM 



Từ bao thế kỷ nay Việt Nam vẫn luôn là nước độc nhất trên thế giới lấy ngày rằm tháng Tám Âm lịch mỗi năm làm Tết Nhi đồng. Các nước "đồng văn" sử dụng Âm lịch khác là Trung Hoa, Hàn Quốc và Nhật Bản chỉ xem dịp rằm tháng Tám là lễ hội đoàn viên hoặc lễ hội lúa mới. Và Việt Nam cũng là nơi duy nhất có phong tục làm lồng đèn hình các con thú cho trẻ em trong dịp Tết Nhi đồng, tức là Tết Trung thu.


Tương truyền vào thời Đường bên Trung Hoa (Phan Kế Bính cho là vào thời Tống) có con cá chép thành tinh. Mỗi năm đến tối rằm tháng Tám con tinh cá vào kinh đô Tràng An bắt người dân để ăn thịt. Triều đình nhà Đường nghĩ ra một kế là dậy cho dân Tràng An làm đèn lồng hình con cá chép bằng khung tre phết giấy hay vải lụa, để đêm Trung thu thắp lên đem ra treo trước nhà hay để đi rước trong kinh thành. Con tinh cá thấy thế tưởng đồng loại đã làm việc ở những chỗ ấy rồi nên bỏ đi. Tục lệ này dần lan ra mọi nơi trong nước và thành lệ mỗi năm. Nước ta lúc bấy giờ hãy còn bị nội thuộc nhà Đường, cho nên có lẽ người mình đã tiếp thu phong tục làm đèn lồng hình con cá này từ giai đoạn đó.


Khi người Mông Cổ chiếm được nước Trung Hoa từ nhà Tống năm 1279, lúc đầu họ đã bãi bỏ nhiều lề lối cũ của người bản địa. Và có thể tục lệ làm đèn con cá chép của người Hoa cũng bị phế bỏ lúc đó. Trong khi đó Việt Nam vì đã ngăn cản được các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, cho nên chúng ta vẫn giữ được nền tự chủ và các phong tục cũ. Trong đó có việc làm đèn lồng Trung thu.


Rồi lần hồi người Việt đã phát triển thêm các loại đèn lồng hình thú hay hoa quả khác cho trẻ em, dựa trên cổ tích Trung thu. Ví dụ như đèn con thỏ ngọc, hay đèn con thiềm thừ hý nguyệt. Theo di thảo của vua Lê Thánh Tôn thì thiềm thừ, tức con cóc ba chân, là thủy tổ của các loài cóc, ếch. Và thiềm thừ đã sống trên cung Trăng từ nhiều vạn năm. Sau này người mình còn tạo ra các loại đèn con bướm, con gà, con tôm, con cua, quả đào, quả lựu, v.v…, cho thêm phong phú.


Từ nhiều thế kỷ, trẻ em Việt Nam đã vui Tết Trung thu của mình với những thứ đồ chơi độc đáo như con giống làm bằng bột và đèn lồng hình dạng các con thú. Đấy là những phong tục đẹp đẽ và độc đáo của riêng người Việt. Nhiều bảo tàng bên Pháp hiện vẫn còn giữ được những cái đèn Trung thu và những con giống bột rất đẹp, tinh xảo; được làm cho Tết Nhi đồng của Hà Nội từ những thập niên đầu thế kỷ 20.


Cho đến cuối thế kỷ 19 thì thú chơi lồng đèn Trung thu ở miền Bắc Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đã thành rõ nếp lắm rồi. Theo các ảnh chụp cũng như tranh vẽ đèn Trung thu ở Bắc Việt của các nhiếp ảnh gia và các nhà ngiên cứu người Pháp, thì từ những năm cuối thế kỷ 19 đèn Trung thu cho trẻ em ở Hà Nội đã rất xúc tích, đa dạng. Mẫu mã đèn Trung thu ở Sài Gòn dù ở thời điểm cực thịnh về sau này, nghĩa là cho đến giữa thập niên 1970, vẫn không thể so sánh với các đèn Trung thu ngoài Bắc mấy thập kỷ trước đó được.


Ngày xưa ở Bắc Bộ có nhiều nơi làm đèn Trung thu cho trẻ em. Nhưng nổi trội nhất phải kể đến làng Báo Đáp ở Nam Trực, Nam Định. Người làng Báo Đáp làm đèn Trung thu bài bản và quy mô hơn mọi nơi khác. Có thể nói là nếu Bát Tràng nổi tiếng với đồ gốm và Vạn Phúc nổi tiếng với vải lụa, thì Báo Đáp được biết đến là làng đèn Trung thu.


Các biến động chính trị, lịch sử đã làm nghệ thuật làm lồng đèn Trung thu cổ truyền quý báu của người mình gần như biến mất từ lâu ở miền Bắc. Nhưng thật may là rất nhiều người dân làng Báo Đáp di cư vào Sài Gòn hồi giữa thập niên 1950 đã tụ họp lại lập ra xóm Phú Bình, hiện ở quận Tân Phú, và tiếp tục nghề làm đèn cố hữu của họ. Tất cả đèn Trung thu của Sài Gòn và các tỉnh miền Nam từ hơn nửa thế kỷ nay đều được sản xuất từ Phú Bình. Nhưng các loại đèn cầu kỳ, tinh xảo cổ xưa cũng đã bị thất truyền ở Sài Gòn từ vài ba chục năm nay.


Từ năm 2007 tôi đã bắt đầu mầy mò ở khu Phú Bình, là chỗ tôi vẫn được đưa đến mua đèn Trung thu loại cao cấp từ hơn nửa thế kỷ trước khi còn bé, để cố gắng tìm nghệ nhân tâm huyết cho việc phục hồi lại nghệ thuật quý báu này. Thật ra mục đích đầu tiên của tôi chỉ là làm lại cái đèn con thỏ mà Trung thu mỗi năm hồi đó tôi nhất định phải có, do cùng một nghệ nhân làm. Tôi quý cái đèn con thỏ đó đến nỗi đã vẽ nằm lòng lại từng chi tiết của nó, nhất là cách dán lông thỏ đặc biệt của người nghệ nhân già. Và con thỏ đó sẽ là mấu chốt để phục hồi lại các đèn Trung Thu đẳng cấp của Báo Đáp - Phú Bình cũ.


Nhưng chuyện không đơn giản. Ví dụ như cách đây khoảng tám năm, có lần tôi cố gắng chỉ cho một người làm lồng đèn cách dán lông thỏ giả vào những cái đèn tương đối còn chấp nhận được, nhưng là những lồng đèn có vẻ đẹp nhất trong phố lúc đó, của anh ta. Như một gợi ý cho anh ta về cách trang trí đèn lồng Trung thu hồi xưa. Nhưng vì anh thợ không hứng thú lắm, cho nên không thành công. Hiện nay, những lồng đèn bán ở chợ lồng đèn Trung thu ở quận 5 vẫn dán lông giả đủ màu sắc mà hoàn toàn không có một căn bản mỹ thuật nào. Và người ta cũng không hiểu mục đích dán lông như vậy để làm gì.


Lông thỏ để làm đèn Trung thu được đặt hàng từ mùa hạ để lấy lông ngắn, không quá xù. Riêng lông bụng dài đẹp phải đặt mua ở Đà Lạt vào mùa đông. Hồi đó chỉ có thỏ ta lông ngắn cho nên phải khó như vậy. Rồi người ta phải biết chỗ nào trên đèn dán lông lưng thỏ, chỗ nào dán lông bụng. Ngày nay vì ý thức đạo đức cho nên phải dùng lông thỏ giả. Nhưng dùng lông giả thì cũng phải biết cách tỉa lông sao cho giống lông lưng, lông bụng thỏ thật.


Mãi đến 2017 tôi mới có cơ duyên gặp được gia đình cụ quả phụ Nguyễn Trọng Văn ở Phú Bình. Gia đình cụ Văn đã có truyền thống làm đèn Trung thu từ nhiều đời ở làng Báo Đáp. Từ khi dọn vào Sài Gòn họ vẫn tiếp tục giữ nghề, dù rằng có phải thay đổi một ít về hình thức của những chiếc đèn này. Người làm việc trực tiếp với tôi là em Nguyễn Trọng Bình, con trai cụ Văn. Bình rất khéo tay, kiên nhẫn, sáng dạ. Và quan trọng nhất là cầu tiến, yêu nghề. Em nhẫn nại chữa các lỗi kỹ thuật hay nhận những yêu cầu khó khăn mà không bao giờ than van, mệt mỏi…


Bình có những kỹ thuật và mẹo để uốn khung tre thành những hình dạng phức tạp một cách thật giản dị và tự nhiên đến buồn cười. Có lẽ đây là những gì còn sót lại từ quê tổ cũ. Chỉ một, hai ngày sau khi gặp gỡ, cái đèn con thỏ thân thương hồi bé của tôi đã hiện ra trước mặt như chưa hề vắng bóng. Cụ Văn cứ ôm cái đèn mà thì thầm: “Đây mới là đèn con thỏ…”. Thật cảm động. Các phác họa khung lồng đèn tôi đưa ra khó đến đâu Bình cũng giải quyết dễ dàng, nhuần nhuyễn như đã sẵn quen thuộc.


Nhưng thế chưa là tất cả trong việc hồi phục lại cái nghệ thuật cổ truyền quý giá đã mất này.


Sau khi đã phục hồi lại được một số đèn Trung Thu cao cấp của Sài Gòn cũ, chúng tôi vẫn bí tị không hiểu người Báo Đáp ngày xưa dán đèn bằng vật liệu gì. Theo hình ảnh và hiện vật còn lại ở các bảo tàng bên Pháp, một số rõ ràng được dán bằng giấy bóng kính. Có những cái đèn dán bằng lụa mỏng. Nhưng phần nhiều được dán giấy nhưng không phải là giấy bóng kính, vì cách vẽ theo lối bôi nước nhiều lần (tương tự như thủy mặc) trên các đèn này thì các loại giấy thường đều không chịu nổi.


Cụ Văn bị bán thân bất toại do tai biến mạch não, cho nên vẫn phải ngồi xe lăn từ nhiều năm nay. Và cụ dường như không để ý mấy đến những gì diễn ra chung quanh. Nhưng từ khi chúng tôi làm lại những lồng đèn cũ thì cụ có vẻ năng động hơn, và nói chuyện với tôi rất nhiều. Một hôm khi Bình và tôi đang bàn về loại vật liệu dán đèn khó hiểu đó, thì cụ Văn bật ra như thét: “Giấy nhiễu! giấy nhiễu mới chịu được nước chứ”. Rồi cụ bảo Bình ra hỏi ‘A Dí’ xem bà ấy còn giấy nhiễu không. A Dí (tức ‘bà dì’ trong tiếng Quảng Đông) là một bà già người Hoa chuyên buôn bán giấy các loại ở chợ Kim Biên từ đã rất lâu, và là bạn thân của gia đình.


Và A Dí cũng giật mình khi chúng tôi tìm giấy nhiễu, vì mấy chục năm nay không ai hỏi đến loại giấy này. Lúc đó gần Tết Nguyên Đán cho nên bà ấy hẹn sau Tết sẽ cố tìm nhập về cho chúng tôi một ít để thử.


Thì ra người Báo Đáp xưa kia phần lớn dán đèn Trung thu bằng giấy nhiễu, hoặc có khi bằng vải. Giấy nhiễu là loại giấy bên trong có trộn vụn tơ hay sợi vải để chịu nước. Đến những năm 1940 trở đi họ cũng đã bắt đầu dán đèn bằng giấy bóng kính. Khi vào Sài Gòn, họ đổi theo phong cách và thị hiếu của các nhà buôn Chợ Lớn mà đổi sang hoàn toàn dán đèn lồng bằng giấy bóng kính, thường là mầu đỏ. Theo phong cách của người Hoa Chợ Lớn, đèn Trung thu cao cấp nhiều khi còn được gắn thêm lông thỏ và mặt mài kim kính. Chỉ tiếc là loại giấy bóng kính của Nhật mấy chục năm trước với độ dầy 20-24µ nay không còn nữa. Hiện người ta phải dùng giấy loại 18µ dễ loang mầu của Trung Quốc.


Cụ Văn cũng cho biết rằng các đèn Trung thu có cái khung treo bên trên hình tròn bằng tre ngày xưa được gọi là đèn Tàu. Đèn Ta hoặc được treo trực tiếp lên cán tre, hoặc được gắn vào khúc cành tre ở bên dưới đèn.


Và cuối cùng chúng tôi cũng tìm tòi ra được các chất liệu và phương pháp để tạo khung, bồi giấy cho các loại đèn con thú cổ truyền Việt Nam. Hóa ra không phải chỉ cần có đúng chất giấy, chất liệu vẽ, và tạo được khung đèn là đủ đâu. Cao điểm là các lồng đèn con cua sống và con cá hóa long của người Báo Đáp ngày xưa, mà chúng tôi đã mầy mò từ khi gặp gỡ 3 năm trước đến nay, đã được xuất hiện trở lại nhân dịp Trung thu 2020. Đến được bước này rồi thì các đèn Báo Đáp cổ truyền khác như đèn con cua luộc, con bướm, quả đào, quả lựu, v.v…, sẽ chỉ tuần tự mà ra lò khi có thời giờ thôi…


Bên cạnh đó, nhiều mẫu mã mới không có trong hệ thống đèn Trung thu cổ cũng được tạo ra theo phong cách truyền thống để cho bộ sưu tập phong phú thêm. Ví dụ như đèn con lợn làm phỏng theo các loại tranh dân gian như Đông Hồ hay Kim Hoàng. Hay đèn con cá Koi Nhật Bản…


Hiện nay các nhà sản xuất đèn ở Phú Bình cũng đã bắt đầu theo mẫu mã của gia đình cụ Văn mà làm lại đèn Trung Thu truyền thống, dù lúc đầu họ vẫn chỉ làm được những mẫu đơn giản về hình dạng. Nhưng số lượng khách đặt hàng đèn Trung thu truyền thống từ khắp nơi trong nước, từ Hà Nội đến Huế hay Cần Thơ… đã tăng lên gấp bội so với những năm trước. Và nhiều trường học bắt đầu cho học sinh làm quen với thú vui rước đèn Trung thu cổ truyền. Đèn Trung thu truyền thống Việt Nam đang tái xuất hiện một cách rất tích cực.


Điều quan trọng nhất là người thanh niên Phú Bình / Báo Đáp này hiện đã nắm giữ lại được tất cả các bí quyết của nghệ thuật làm đèn Trung thu cổ truyền của đất nước, mà trong bao năm tưởng như đã mất.


(Trịnh Bách)