Monday, November 7, 2022

QUYỂN SÁCH LỚN NHẤT CỦA NHÂN LOẠI

 





Truyện cổ Tây Ban Nha
* * *
Ngày xửa ngày xưa, có một bà goá sống cùng bảy đứa con trai. Cuộc đời đến khổ chung quy chỉ vì nghèo, nghèo nhất làng.
Khi cái nghèo đã đến độ tận cùng, bảy anh con trai bèn quyết định ra đi, đi khắp thế gian để kiếm ăn. Còn bà mẹ ở lại nhà, lo chăm bẵm mỗi một con cừu cái, và mảnh ruộng trồng ngô bé tẹo, bé đến mức con thỏ rừng chỉ co cẳng nhảy một cái là có thể vượt qua.
Bảy anh em đi mãi, qua hết thành phố này đến thành phố khác, từ làng nọ sang làng kia, nhưng chẳng nơi nào kiếm được việc làm. Các cậu đói meo. Đêm đến cũng chẳng có nơi ngủ đỗ, đành nằm vật vạ trong rừng, dưới tán cây, hoặc chui vào các bờ bụi bên đường, vặt được của thiên nhiên chút gì, đút vào bụng chút ấy.
Một hôm trời đột ngột trở mưa tuôn xối xả, gió lạnh nổi lên. Chiều xuống rồi, thế mà khắp xung quanh chẳng thấy nhà cũng chẳng thấy người. Ngay lúc đó, họ bỗng thấy hiện ra trong tầm mắt những bước tường đổ nát của một toà lâu đài cổ. Bảy anh em bảo nhau đến đó gõ cửa xin trú đỗ qua đêm. Nhưng chẳng có ai ra mở cửa.
Họ tiếp tục gõ, vẫn im phăng phắc. Họ đẩy cửa, bước vào một khoảng sân rộng bỏ hoang. Trong sân không có chó giữ nhà; chuồng ngựa vắng hoe; kho thóc rỗng, chẳng có đến một con chuột. Gió lùa thông thống rú rít qua các ô cửa sổ nứt vỡ, không nơi nào thấy có một tia sáng le lói.
Bảy anh em đi băng qua sân, vào lâu đài. Họ cất tiếng gọi, họ đập cửa; tiếng họ âm vang khắp hành lang trống trải, nhưng chẳng có ma nào đáp lại. Họ mở cánh cửa đầu tiên và đưa mắt nhìn vào phòng: chỉ thấy một lớp bụi dày phủ trùm tất cả. Trong các góc phòng, những tấm lưới nhện chăng ngang chăng dọc như những cánh buồm trên một con tàu. Cùng cảnh ấy bày ra trước mắt khi họ sang phòng thứ hai, phòng thứ ba và tất cả các phòng khác.
Cho đến khi mở cửa căn phòng cuối hành lang thì cả bảy anh em đều sững sờ: không một vết bụi, một sợi tơ nhện; chính giữa phòng có kê một chiếc bàn lớn bày bảy bộ đồ ăn bằng bạc, một đĩa đựng thịt sốt hãy còn bốc khói; cạnh mỗi bộ đồ ăn, có một chiếc khăn lụa, và một cốc rượu vang đỏ; trong giỏ, một chiếc bánh mì hãy còn nóng hôi hổi, toả mùi thơm quyến rũ; và trong lò sưởi, củi đã xếp sẵn chờ châm lửa.
Mấy anh em còn gọi thêm nhiều lần nữa, nhưng tiếng họ vang lên trong hành lang rồi tắt ngấm, chẳng hề được trả lời. Lúc bấy giờ người anh cả mới đánh bạo bước đến cạnh lò sưởi, và châm lửa, củi bén lửa, chẳng mấy chốc một làn hơi ấm dễ chịu tràn ngập gian phòng. Bảy cậu con trai đã đói meo từ sáng sớm, liền ngồi cả vào bàn bắt đầu đánh chén.
Đang ăn, họ bỗng nghe một giọng nói run rẩy.
- Cho thêm chút ánh sáng nữa! Cho thêm chút ánh sáng nữa!
Cả bảy anh em đều cảm thấy máu trong huyết quản đông đặc. Họ đứng bật dậy, chờ đợi một người nào đó đi qua, nhựng âm vang chầm chậm tan đi và xung quanh lại im phắc. Vẫn còn ngập ngừng, họ quay trở lại bàn ăn, nhấm nháp chút rượu vang. Chính lúc đó, lại nghe vang lên tiếng kêu:
- Cho thêm chút ánh sáng nữa! Cho thêm chút ánh sáng nữa!
Tiếng kêu ngừng, âm vang lịm tắt trong tĩnh lặng, trở về họ chỉ còn nghe từ lò sưởi tiếng nổ tí tách của ngọn lửa.Người anh cả liền thu hết can đảm, đứng dậy, đốt lên một ngọn đuốc và nói:
- Để anh đi xem có chuyện gì
- Chúng em cùng đi với anh, - sáu người em đồng thanh đáp lại.
Họ ra hành lang, nhưng chẳng thấy gì cả: chỉ có vầng trăng lấp lánh giữa cácđám mây rách tướp, tràn ngập khắp mọi nơi một thứ ánh sáng nhợt nhạt. Họ xem xét căn phòng ở liền bên cạnh, rồi căn phòng tiếp theo, lục lọi tất cả mọi xó xỉnh có cửa mở ra hành lang. Nhưng chẳng tìm được gì, ngoài lớp bụi dày trải hắp nơi và các tấm lưới nhện giăng trên trần, tưởng chừng như đã lâu lắm, không một người nào lọt vào đây.
Họ lên cầu thang, vào xem các căn buồng khác, cũng chẳng thấy gì. Thế nhưng, cứ chốc chốc, từ một nơi nào đó trong bóng tối mịt mùng, tiếng kêu run rẩy lại vang lên:
- Cho thêm chút ánh sáng nữa! Cho thêm chút ánh sáng nữa!
Cứ mỗi lần như vậy, cả bảy anh em đều run bắn lên. Tuy vậy, họ luôn luôn lấy lại được bình tĩnh, tiếp tục cuộc kiếm tìm.
Họ lục soát hết phòng lớn, phòng bé, hết các hành lang, các tiền sảnh rồi đến một cánh cửa cuối cùng, trên ngọn tháp cao. Cảnh bên trong chợt hiện ngay khi cánh cửa bật mở khiến bảy anh em đều sửng sốt bàng hoàng.
Chính giữa căn phòng đầy bụi và mạng nhện, một ông lão ngồi trên chiếc ghế bành cũ kỹ, gần như thủng đít. Khuôn mặt tái nhợt của ông lão được đóng khung bởi một bộ tóc bạc phơ, bộ râu dài chấm tới đất. Sau lưng ông lão, một bức tranh vẽ con mèo đen treo tường. Con vật nhìn các vị khách không mời qua phía trên vai ông lão, đôi mắt xanh lè lấp lánh trong ánh trăng khiến mấy anh em cảm thấy như có sự đe doạ.
Ông lão thậm chí chẳng thèm để ý đến sự có mặt của các chàng trai. Trước mắt ông , trên chiếc bàn thấp , nhỏ , một cuốn sách lớn đã mở sẵn , hình như ông đang muốn dò đọc. Và thỉnh thoảng ông lại rên rỉ:
- Cho thêm chút ánh sáng nữa! Cho thêm chút ánh sáng nữa!
Mấy anh em cảm thấy chân cẳng mềm nhũn, và lạnh buốt dọc sống lưng. Đúng lúc họ sắp sửa rời căn buồng và chuồn khỏi lâu đài, người anh cả trấn tĩnh lại bước đến gần ông lão; chẳng hiểu sao, một nỗi thương cảm bỗng tràn ngập lòng anh. Giơ ngọn đuốc cao quá đầu, anh nói với ông lão bằng một giọng ra chiều an ủi:
- Ánh sáng đây , thưa cụ!
Ông lão cũng chẳng nhìn, hơi cúi thấp xuống và bắt đầu đọc một cách say sưa. Ông đọc ngấu nghiến, đọc không ngừng nghỉ, đôi mắt như gắn chặt vào sách , tay vội vàng lật giở các trang giấy đã ố vàng, chừng như sợ ánh sáng tắt trước khi đọc xong. Ngọn đuốc vẫn cháy chầm chậm.
Đọc đến trang cuối, ông lão thở dài nhẹ nhõm, gập sách và với dáng vẻ mệt mỏi, đặt sách lên bàn. Đến lúc đó, mấy anh em mới nhận ra là bộ sách rất dày, gồm nhiều tập, được đóng lại bằng bìa da cũ, các góc bịt bạc đã đen xỉn. Ông lão nhìn người anh cả, và nói với giọng đã thư giãn:
- Lão cảm ơn con, con trai ạ. Lão cảm ơn tất cả các con đã giải thoát lão. Khi còn sống, suốt bao nhiêu năm trời, lão không yêu thương bất cứ người nào, trái tim lão không hề biết thương cảm. Mọi người xa lánh lão, bảo rằng lão dữ tợn, độc ác và tàn nhẫn. Và đây là hình phạt mà lão phải gánh chịu: lão bị giam ở nơi này cho đến khi đọc xong cuốn sách lớn kia.
Sách nói về những người khôn ngoan và tốt bụng, miêu tả nỗi khổ đau, cực nhọc của họ, những giọt nước mắt của họ, những bất công giáng xuống họ, và tất cả những cái đó đều do thói ích kỷ của lão gây ra. Những trang sách chứa đầy tiếng khóc của các bà mẹ chăm sóc con lúc đau ốm, nỗi đớn đau của những đứa con không giúp nổi cha mình, nỗi thất vọng của những người đàn bà vĩnh viễn mất con. Lão phải đọc bằng hết cuốn sách. Thế mà ở đây, luôn luôn thiếu ánh sáng. Bởi vì ánh sáng mặt trời và mặt trăng khó lọt nổi qua các ô cửa sổ bé nhỏ kia. Lão bắt đầu đọc từ một trăm năm trước và mãi mãi không thể đọc xong trừ phi có ai đó đến cứu lão bằng cách rọi sáng giúp, nếu không lão cứ phải vĩnh viễn ở đây.
Các con đã cứu lão. Để đền đáp lại, lão cho các con ngôi nhà này và mọi thứ xung quanh. Ngôi nhà đã đổ nát gần như tàn lụi, bị trùm lấp dưới các lùm ngấy và cúc gai, nhưng nếu các con đào xuống hầm nhà, các con sẽ tìm được bảy chiếc hũ đựng đầy vàng nén, hãy lấy tất cả đi, số vàng ấy sẽ thuộc về các con.
Ngọn đuốc tắt, đúng lúc ông lão dứt lời. Người anh cả chạy đi tìm một ngọn đuốc khác, nhưng khi anh quay lại, ông lão và cuốn sách đã biến mất, trên tường chỉ còn lại một cái khung rỗng.
Sáng hôm sau, mấy anh em xuống hầm nhà, đào đất và lấy bảy chiếc hũ đựng đầy vàng.
Họ quay về nhà mời mẹ đến lâu đài, sửa sang lại các bức tường cũ, lau dọn các căn phòng, chuồng ngựa, vườn tược, và khai khẩn vùng đất xung quanh. Mấy mẹ con mãi mãi không còn biết đến đói nghèo, cùng cực.
Họ cũng mãi mãi không bao giờ quên ông lão và những gì được ghi trong cuốn sách của ông.