Tuesday, March 21, 2023

Vài nét về đạo Phật và Thiền tông Việt Nam


Ở một bài viết, post vào đêm Giao thừa năm Nhâm Dần, một ông anh - anh Phan Thanh Kiều ở Đồng Nai, người rất thân như anh em cách nay hơn 40 năm, mà tôi tình cờ gặp lại qua Internet, gợi ý tôi viết bài kế tiếp về "Thiền sư Thích Nhất Hạnh". Tôi OK, dù biết rằng để nêu thấu đáo vấn đề bài viết cần dài, sẽ khá kén người đọc, không hợp với người thích đọc ngắn trên Facebook. Nhưng thôi cứ viết, cứ post, như một người bạn nghiên cứu, dạy đại học, nói "... ở tuổi chúng ta không còn nhiều thời gian, viết được gì thì viết …". 


Tôi không phải là một Phật Tử, cũng không phải là người nghiên cứu Phật giáo, nhưng nhiều người gọi tôi là nhà văn nhiều lúc cũng cần tìm hiểu, có hiểu biết chút ít về tôn giáo để viết lách, sáng tác.


Để hiểu rõ, đúng mức về Thích Nhất Hạnh có lẻ trước hết nên nói qua về bối cảnh lịch sử của Phật giáo Việt Nam, với sự du nhập, hình thành và phát triển. Và cũng riêng nói một chút về Thiền tông Việt Nam. Sau đó thì nói về đạo Phật với đời, trong mối tương quan với chính trị, xã hội đương thời. Rồi mới nói đến tư tưởng, hoạt động hành đạo của Thiền sư Nhất Hạnh. (ở Phần 2)


Phần 1: 

VÀI NÉT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ THIỀN TÔNG Ở VIỆT NAM 


Đạo Phật được thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ truyền bá ở Việt Nam cách nay hơn 2000 năm. Lúc đầu dân chúng gọi Đức Phật là Bụt (Buddha), sau này đạo Phật mới thực sự phát triển và thịnh vượng dưới thời Lý - Trần (1009-1428), trở thành "Quốc đạo", tăng lữ được hưởng bổng lộc triều đình. 


Nhưng từ năm 1396, từ Triều Hồ đến nhà Hậu Lê (1427-1789), nhà Nguyễn (1802-1883) và kéo dài đến thời Pháp thuộc (1884-1945), Khổng giáo thay dần Phật giáo,  được đề cao, suy tôn. Tuy vậy, trong dân gian, những hoạt động của đạo Phật như thờ cúng, tụng kinh, cầu siêu, ăn chay, bố thí, phóng sinh … vẫn phổ biến, trở thành nếp sống văn hóa chung của người Việt.


Riêng trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627-1775), đặc biệt là dưới thời các chúa Nguyễn (1558-1777), đạo Phật ở xứ Đàng Trong được tôn vinh trở lại. Nhiều chùa chiền lớn đã được xây dựng, một số vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay như chùa Linh Mụ, chùa Từ Đàm (Huế), chùa Sùng Hóa (Phú Vang)… Trong giai đoạn này, nhiều tăng sư Đại thừa trực tiếp từ Trung Hoa vào Đàng Trong giảng kinh, thành lập nhiều tổ đình. Và Huế cũng trở thành tổ đình, trung tâm sinh hoạt của đạo Phật.


Như đã nói Phật giáo xuất hiện rất lâu đời ở  Việt Nam, cách đây trên 2000 năm, rất nhiều tông phái Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa lần lượt du nhập vào Việt Nam.


Hiện nay theo các kinh của Hán Tạng thì có 11 tông phái đang hoàng pháp. Trong quá trình phát triển, Phật giáo Việt Nam tiếp nhận một số trong số đó, cả hai hệ phái Bắc tông và Nam tông, đồng thời cũng dung hợp tạo ra một hệ phái mới, hệ phái Khất sĩ.


Về hệ phái Bắc tông có Thiên Thai tông, Chơn Ngôn tông, Thiền tông, Tịnh Độ tông, Mật tông… Những tông phái này chịu ảnh hưởng của Phật giáo từ Trung Quốc nên mỗi tông phái còn chia ra nhiều dòng phái. Thiên Thai tông cũng có Thiên Thai Thiền giáo tông, Thiên Thai Giáo Quán tông…,Tịnh Độ tông có Tịnh Độ tông Việt Nam, Tịnh Độ Cư sĩ Phật học hội…  Về hệ phái Nam tông có hai cộng đồng tộc người ở Nam Bộ là người Việt và người Khmer theo đạo. Trong người Khmer, Phật giáo Nam tông gồm hai phái chính là Mahanikay và Thommayut. Trong người Việt có Phật giáo nguyên thủy Việt Nam (Theravada).


Hệ phái Khất sĩ là hệ phái riêng có tại Việt Nam, dung hợp tinh thần của hai hệ phái Bắc tông và Nam tông, do tôn sư Minh Đăng Quang khai sáng vào năm 1943. Hệ phái này cũng chia làm hai tổ chức, một dành cho tăng sĩ, một dành cho ni giới. Trước năm 1975, có Giáo hội Tăng già, Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam.


Như vậy, phái Đại thừa (Mahayana) chiếm đa số với các tông phái Bắc tông: Thiền tông (Zen), Tịnh Độ tông, Mật tông (Vajrayana),  phái Tiểu thừa (Theravada) chỉ giới hạn ở miền Nam với các tông phái Nam tông: Phật giáo nguyên thủy, Phật đường Nam tông Minh sư đạo. Mỗi tông phái có nhiều hệ phái nhỏ.


Riêng về Thiền tông, vốn tiếp thu từ năm dòng Thiền của Trung Quốc, gọi "ngũ gia tông phái", nhưng khi sang Việt Nam, chỉ phổ biến hai dòng chính là Lâm Tế và Tào Động. 


Trong dòng phái Lâm Tế cũng có nhiều phân phái, hoặc chịu ảnh hưởng từ các bài kệ phát phái của các thiền sư Trung Quốc, nhưng cũng có bài kệ do thiền sư Việt Nam xướng xuất. Có thể kể một số phái chính đã tồn tại ở Việt Nam thuộc dòng Lâm Tế: "Lâm Tế Tổ Đạo" với bài kệ Tổ đạo giới định tông… do thiền sư Tổ Định xướng xuất, "Đạo Bổn Nguyên" với bài kệ Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên… do thiền sư Đạo Mẫn xướng xuất, "Liễu Quán" với bài kệ Thiệt tế đại đạo… do thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán xướng xuất, "Chúc Thánh" với bài kệ Minh thiệt pháp toàn chương… do thiền sư Minh Hải Pháp Bảo xướng xuất, "Trí Huệ" với bài kệ Trí huệ thanh tịnh… do thiền sư Trí Thắng Bích Dung xướng xuất.


Thiền phái Tào Động khởi đầu là từ phép tu của Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bổn Tịch (thế kỷ IX) ở Trung Hoa, quan điểm của phái này được tượng trưng bằng nghiêng và thẳng. Thẳng là tuyệt đối, chân không pháp thân, nghiêng là tương đối hiện tượng diệu hữu. Thẳng và nghiêng vốn là một. Tổ Thiền phái Tào Động Việt Nam là đại sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704), quê ở Thái Bình, sang Trung Quốc tu học. Đến năm 1667, sau ba năm ở Trung Quốc, ngài về nước, trú tại chùa Vọng Lão, huyện Đông Triều, Hải Dương. Đại sư thành lập Thiền phái Tào Động tại Đàng Ngoài, phát triển mạnh mẽ hơn 100 năm. Về sau, tuy Thiền phái này không còn mạnh như trước, có dấu hiệu lụi dần nhưng không bị mất hẳn. Ngày nay vẫn còn khá nhiều chùa, chư tăng ni thuộc Thiền phái Tào Động ở các tỉnh thành ở miền Bắc.


Ở góc độ khác, ta hiểu Thiền tông (tiếng Trung: 禪宗; bính âm: chán-zōng), còn gọi là Phật Tâm tông là một pháp môn tu tập. Tổ sư Thiền là một tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ 28 đời Tổ sư Ấn Độ và truyền bá lớn mạnh ở Trung Quốc. Tuy nhiên các thiền sư trong Thiền tông tự coi tông phái mình tách biệt không thuộc Đại thừa hay Tiểu thừa. Khoảng một ngàn năm sau thời Đức Phật, truyền thuyết kể rằng Tổ Bồ đề đạt ma, vị Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa, đưa Thiền tông vào Trung Quốc, truyền cho Nhị tổ Huệ Khả. Dòng Thiền được nối tiếp qua Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Huệ Năng. Thiền tông trở thành một tông phái lớn, với mục đích là "hành giả trực nhận được bản thể của sự vật và đạt giác ngộ", như Phật Thích ca Mâu ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ đề. Tông phái này được đưa vào Việt Nam từ Trung Quốc với tên gọi là Thiền tông, và qua Triều Tiên với tên gọi là Seon, hay Nhật Bản là Zen.


Thiền tông Trung Quốc được sáng lập trong thời kì Phật pháp đang là đối tượng tranh luận của các tông phái. Để đối lại khuynh hướng "triết lý hoá", phân tích chi li các giáo lý Phật giáo của các tông khác, các vị Thiền sư bèn đặt tên cho tông mình là "Thiền" để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chứng ngộ Phật tính thông qua thực tiễn tu tập và thực chứng. Thiền tông không chủ trương phế bỏ kinh sách nhưng cũng không khuyên chấp nhặt quá vào kinh sách, kinh sách được dùng làm phương tiện để tham khảo chứ không phải mục đích đến của các hành giả Thiền Tông. Mục đích tối thượng của người tu tập theo Thiền tông là "liễu ngộ phật tính", thấu suốt bản tâm thanh tịnh của chính mình, thoát khỏi sinh tử luân hồi và sống với bản tâm thanh tịnh ấy, nếu có nhân duyên thì hoằng hóa giúp người cũng tu tập ngộ đạo, làm lợi lạc quần sinh.


Như vậy nét đặc trưng của Thiền tông là:


"Truyền giáo pháp ngoài kinh điển

không lập văn tự

chỉ thẳng tâm người

thấy chân tính thành Phật".


Bốn tính chất này được xem là do Bồ đề đạt ma nêu, nhưng cũng có người cho rằng chúng xuất phát từ Thiền sư đời sau là Nam Tuyền Phổ Nguyện (zh. 南泉普願, 749-835), một môn đệ của Mã Tổ Đạo Nhất. Giai thoại cho rằng quan điểm "Truyền pháp ngoài kinh điển" đã do Phật Thích Ca áp dụng trên núi Linh Thứu (sa. gṛdhrakūṭa). Trong pháp hội đó, Ngài im lặng đưa lên một cành hoa và chỉ có Ma ha Ca diếp (sa. mahākāśyapa), một đại đệ tử, mỉm cười lĩnh hội ý chỉ của cách "Dĩ tâm truyền tâm" (以心傳心, xem Niêm hoa vi tiếu), được Đức Phật truyền mật pháp với lời dạy: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền", nay trao cho "Ma ha Ca diếp". Thích Ca ấn chứng cho Ca diếp, từ đó, Thiền tông coi trọng tính chất "đốn ngộ" (zh. 頓悟), nghĩa là "giác ngộ ngay tức khắc", trên con đường tu học. Có người cho rằng đây chỉ là một giai thoại trong Văn học Thiền, chứ không hề thấy chép trong kinh điển nào.


Về "Thiền định", thực ra, rất khó định nghĩa về "thiền", về "định" một cách khái quát. "Thiền" (Phạn: dhyana, Pali: jhàna) có nghĩa là tư duy, tập trung tâm ý, tĩnh lặng, thông hội tâm mình với ngoại cảnh,  từ đó hành giả tập trung vào một đề tài, một đối tượng, đấy là "định" (S. samadhi). Như thế, nếu không kể đến mức độ sâu cạn, thì "thiền định" là phương cách tư duy của mọi người, thuộc một tôn giáo hay không tôn giáo nào chứ không riêng của Phật giáo.


Trước thời và trong thời Đức Phật, các tu sĩ Ấn Độ cũng đã rất quen thuộc với "Thiền định" và rất nhiều vị đã đạt trình độ cao, đã đạt được một số thần thông. Tam vô lậu học của Phật giáo bao gồm Giới luật, Thiền định và Trí tuệ. Như vậy, tu học Phật pháp, là tu sĩ hay tín đồ Phật giáo, đều phải thực hành "Thiền định". 


Về kinh điển Đại thừa là một sự triển khai thiện xảo, sáng tạo từ kinh điển Nguyên thủy, tạo triết học Phật giáo thành một nền triết học đỉnh cao. Thiền tông Trung Hoa cũng thế, nhưng sự triển khai này có những ghi chép sự kiện, chi tiết mang tính cường điệu, khó có thể thuyết phục, lắm khi pha lẫn với tính chất tiểu thuyết, tưởng tượng, thậm chí hoang đường, hoặc đôi khi có vẻ hung bạo, ví dụ như "Nhị tổ tự chặt tay, đứng suốt đêm ngoài tuyết để cầu đạo, Nam Truyền chém mèo để dạy chúng, Câu Chi chặt đứt ngón tay của chú tiểu…". Ngay cả tôn chỉ "bất lập văn tự" trong Pháp bảo Đàn kinh cũng không nhất quán: Tổ Huệ Năng vẫn giảng kinh Kim Cương, Bát nhã, Niết bàn, Duy ma cật... Các tông phái Thiền từ Tổ Huệ Năng trở về sau cũng không khác nhau về nội dung tu tập, đó là sự triển khai kinh Đại thừa theo cung cách đặc biệt: vô ngã, vô niệm, vô đắc, không, bất nhị, phá chấp, tâm ấn, đốn ngộ, sự tự tại, thong dong, vô vi gần như của triết lý Lão Trang.


Thiền tông Việt Nam cũng mang nội dung và hình thức tương tự, nhưng tất nhiên có một số khác biệt.


Thế kỷ thứ VI tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Ấn Độ sang Trung Hoa học đạo với tổ Tăng Xán, vị Tổ nổi danh với bài "Tín tâm minh", biểu lộ tính tự tại, vô chấp, vô cầu. Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi cũng được xem là có nội dung tu tập gồm Thiền tông và Mật tông. Có lẽ các học giả về sau căn cứ vào sự việc Tỳ-ni-đa-lưu-chi dịch kinh Tượng đầu (tư tưởng Thiền), kinh Siêu việt hữu vô và kinh Tổng trì (tư tưởng Mật). Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi được xem ngang với Tổ thứ tư ở Trung Hoa là ngài Đạo Tín.


Như đã  nói, Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci, Nam Ấn) sang Trung Hoa năm 562, đệ tử của Tam Tổ Trung Hoa là Tăng Xán. Sau khi ngộ đạo, được tổ Tăng Xán dạy đi về phương Nam truyền bá Thiền tông. Đại sư sang Việt Nam năm 580 đến chùa Pháp Vân, gặp và truyền pháp cho Pháp Hiền. Thiền pháp Tỳ-ni-đa-lưu-chi kể từ Pháp Hiền thì được 18 thế hệ. Các vị đại sư kế tục Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, ngoài tư tưởng Thiền, còn là những vị nghiêng về Mật tông, với Sấm ký, pháp thuật như Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Pháp Thuận…


Đến thế kỷ thứ IX có ngài Vô Ngôn Thông là đệ tử tổ Bá Trượng ở Trung Hoa, sang Việt Nam truyền thiền nên có phái thiền Vô Ngôn Thông. Đại sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, Trung Quốc từng ngộ pháp từ câu nói của đại sư Bách Trượng (thuộc thế hệ thứ 3 từ sau Lục tổ Huệ Năng). Năm 820, đại sư đến chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng ở Bắc Ninh, truyền pháp cho ngài Cảm Thành. Từ đó, truyền được tất cả 17 thế hệ. Thiền phái này chú trọng sự đốn ngộ, Phật chính là tâm, bất nhị, vô đắc. Ngoài ra, cần kể một nét đẹp, đặc sắc của Thiền phái này là các Thiền sư thường là những nhà thơ thiền, dùng thơ để giải đáp cho người vấn đạo, mở đầu cung cách nêu thoại đầu bằng thi ca, tạo thành nét đẹp, đặc sắc trong Văn học Thiền Việt Nam: Thiền Lão (thế hệ 7), Viên Chiếu (thế hệ 8), Trí Bảo (thế hệ 11), Tịnh Không (thế hệ 11).


Sau này còn có ngài Thảo Đường khi đi hành hóa bị vua Lý Thánh Tông bắt đem về Đại Việt năm 1069 lúc đem quân chinh phạt Chăm Pa. Nhà Lý phát hiện ngài là một vị đại sư tài trí, đức độ nên rất kính phục, tôn sùng, được vua phong làm Quốc sư. Ngài Thảo Đường thuộc thế hệ thứ 8 của dòng Thanh Nguyên Hành Tư, tức là thuộc thế hệ thứ 9 của Lục tổ Huệ Năng. Ngài trở thành Tổ của phái thiền Thảo Đường ở Việt Nam, trụ trì chùa Khai Quốc tại kinh thành Thăng Long. Thiền phái gồm 6 thế hệ, trong đó có các đại sư Bát Nhã (thế hệ 2), Không Lộ, Định Giác (thế hệ 3) là các đại sư nổi tiếng của Việt Nam. Nhưng Thiền phái Thảo Đường không có sức ảnh hưởng lâu dài, bởi là Thiền phái trí thức, gồm vua quan và một số cư sĩ trí thức. Điều đáng lưu ý là Thiền phái này có sự dung hợp với Thiền phái Vô Ngôn Thông và một phần có sự ảnh hưởng của Mật tông, ví dụ trường hợp của Bát Nhã và Đại Điên, vốn đã có từ Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Thiền phái Vô Ngôn Thông.


Như vậy từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ X, Thiền tông hưng thịnh ở Việt Nam do ba hệ phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường.


Đến khi thái tử Trần Khâm tức vua Trần Nhân Tông sau này, được vua Trần Thánh Tông gởi đến Tuệ Trung Thượng Sĩ học đạo lý. Khi từ giã về, thái tử hỏi: “Mục tiêu chủ yếu của thiền là gì?”. Ngài Thượng Sĩ trả lời: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”, nghĩa là "quay lại chiếu soi nơi mình, đó là phận sự chính, không phải từ bên ngoài mà được". Điều mà Thượng Sĩ nói cho vua Trần Nhân Tông nghe, đơn giản là "sự phản quan nội tâm mình để được ngộ đạo".


Sau khi đăng vị, vua Trần Nhân Tông vừa trị nước vừa nghiên cứu nội điển để tu tập. Năm 41 tuổi vua trao hết quyền hành cho con và đi xuất gia. Ông lên núi Yên Tử và rừng Trúc ở Ngọa Vân Am chuyên tu, nên có hiệu là Trúc Lâm Đại đầu đà. Sau năm năm khổ hạnh ông ngộ đạo, lập ra hệ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử rồi truyền đạo.


Nhưng tổ khai sơn của Thiền phái Yên Tử lại là đại sư Hiện Quang (mất năm 1220), tu ở chùa Lục Tổ do đại sư Thiền Chiếu (Thiền phái Vô Ngôn Thông) trụ trì, về sau tham học với các ngài Trí Không, Pháp Giới rồi khai sơn núi Yên Tử, thường được là Trúc Lâm đại sa môn, được phong làm Quốc sư. Từ đó, truyền thống Trúc Lâm Yên Tử được hình thành. Sau khi đại sư Hiện Quang tịch, nối tiếp truyền thống Trúc Lâm là Đạo Viên (thầy của vua Trần Thái Tông), Đại Đăng (thầy của vua Trần Thánh Tông), Tiêu Diêu (thầy của Tuệ Trung), Huệ Tuệ, Trúc Lâm (tức Trần Nhân Tông), Huyền Quang, Pháp Loa... cho đến Vô Phiền, tổng cộng là 23 vị, 5 thế hệ đầu của truyền thống Trúc Lâm Yên Tử, nổi bật về cung cách tu tập Thiền tông chỉ gồm vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng hai vị này là cư sĩ và không cụ thể truyền pháp cho ai. Sự truyền thừa chỉ gần như là nối nghiệp trụ trì. Đến Trúc Lâm đầu đà Điều Ngự Trần Nhân Tông, vị vua anh minh, vị Thái thượng hoàng cao quý, bỏ ngai vàng để thành Sa môn, đại Thiền sư, lập Thiền am trên núi Yên Tử, trở thành vị Tổ của 17 đại sư thuộc 17 thế hệ sau của truyền thống Trúc Lâm.


Đất nước và Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh mẽ, rực rỡ nhất vào thời nhà Trần, tức vào thời Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được thành lập. Nội dung thực hành chủ yếu nhằm vào tư tưởng của Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Sơ tổ Trúc Lâm, Nhị tổ Pháp Loa và Tam tổ Huyền Quang: Phật tại tâm, Chân tâm, Bất nhị, Sự thong dong tự tại, Ý nghĩa truyền tâm, truyền y bát. Đặc biệt, Thiền phái này có lối ứng cơ tiếp vật qua các thoại đầu, chen lẫn thơ ứng khẩu nhưng nội dung thực hành thì không khác với Thiền tông Trung Hoa, lại có sự pha trộn ít nhiều với Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông.


Như vậy có thể nói hệ phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời tiếp nhận tinh hoa từ ba hệ phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, kết tụ thành hệ phái thiền thuần túy Việt Nam. Từ khi có hệ phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, các hệ phái Thiền khác, vào thời  này đều vắng mặt, ]không còn phát triển nữa. Nhưng từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XV nhà Trần mất, nhà Lê lên không chấp nhận Phật giáo, thượng tôn Nho giáo. Từ đó hệ phái Trúc Lâm Yên Tử cũng suy yếu dần. 


Một số học giả cho rằng Thiền sư Chơn Nguyên (mất 1722) đã phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vì ngài là người được truyền thừa y bát Trúc Lâm. Nhưng ngoài việc ngài và các đệ tử trú tại Trúc Lâm, trùng san một số sách đời Lý Trần, lại không thấy chủ trương tu tập của ngài giống với Trúc Lâm, nên cơ sở lập luận này không vững chắc. Gần đây, Hòa thượng Thích Thanh Từ từ 1971 đến 2011 đã xây dựng khoảng 40 Thiền viện, được cho rằng ngài khôi phục Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Công lao, trí tuệ, đạo đức của ngài là rất lớn, nhưng qua sinh hoạt của các Thiền viện vẫn không mang được sắc thái của truyền thống Trúc Lâm.


Chúng ta trở lại dòng Thiền Lâm Tế ở Việt Nam. Như đã biết trong lịch sử, đến thế kỷ XVIII, XIX Việt Nam chia làm hai, Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đàng Ngoài có vua Lê, Đàng Trong thì chúa Nguyễn. 


Đàng Trong chúa Nguyễn thỉnh các Tổ từ Trung Hoa thuộc hệ phái Lâm Tế sang truyền bá Phật pháp, như ngài Nguyên Thiều. Đàng Ngoài vua Lê cũng thỉnh các Tổ thuộc hệ phái Lâm Tế hoặc Tào Động như ngài Chuyết Công… Đến nhà Nguyễn, các Tổ cũng đều chịu ảnh hưởng của hệ phái Lâm Tế.


Nói chung ở nước ta, từ thế kỷ thứ III mãi cho đến ngày nay, các Tổ tu thiền, đa số thờ kính tổ Lâm Tế. Tổ Lâm Tế hiệu Nghĩa Huyền, ở cuối đời Đường. Ngài phát tâm tu, bình nhật ít nói nhưng hiểu đạo sâu xa thâm thúy. Ngài tới hội của Thiền sư Hoàng Bá - Hy Vận, tức đời thứ tư sau Lục Tổ Huệ Năng. Là người nhiệt tâm cầu đạo, tu hành cẩn mật, hạnh kiểm, nên ai cũng kính nể. Ngài ngộ được yếu chỉ đại ý Phật pháp là "chỗ vô ngôn".. Lâm Tế nổi tiếng là con người kỳ đặc trong giới Thiền sư.


Một số sách về lịch sử Thiền Việt Nam cũng đã ghi rằng, "từ thời chúa Nguyễn Hoàng (1559-1613), khoảng mười vị sư từ Trung Quốc sang Việt Nam, đến các tỉnh Quảng Trị, Thuận Hóa (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên… lập chùa, phần lớn là thuộc dòng Thiền Lâm Tế. Thuận Hóa là kinh đô nên nhiều thiền sư đến hoằng hóa. Đáng kể nhất là đại sư Minh Hoằng Tử Dung (nguyên quán Quảng Đông, đời thứ 34 dòng Lâm Tế) khai sơn chùa Ấn Tôn, truyền Thiền Lâm Tế cho Đại sư Liễu Quán, một Thiền sư Việt Nam vào năm 1708. Ngài Liễu Quán (mất năm 1793) trở thành Tổ của dòng Lâm Tế Việt Nam và thuộc thế hệ 35 dòng Lâm Tế, người xây dựng, trú trì các chùa Thiền Tông, Viên Thông ở Thuận Hóa, Hội Tông, Cổ Lâm, Bảo Tịnh tại Phú Yên. Thiền phái này vẫn theo truyền thống truyền tâm, truyền công án, thoại đầu".



Tóm lại, ngoài Tào Động, hệ phái Lâm Tế  là một trong hai hệ phái quan trọng trong Thiền tông Việt Nam. Đến nay, Thiền phái này vẫn tồn tại nhiều nhất tại Thừa Thiên Huế. Đại sư Thích Nhất Hạnh, xuất thân từ chùa Từ Hiếu, thuộc thế hệ thứ 8 dòng Liễu Quán và thứ 42 dòng Lâm Tế, người đã phát triển Thiền Việt Nam ở hải ngoại, trở thành vị Thiền sư nổi tiếng khắp thế giới, ngài từng có những hoạt động chống chiến tranh, được nhà lãnh tụ da đen của Mỹ, Martin Luther king, Jr. đề nghị giải Nobel về hoà bình. (Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu về Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở phần 2 của bài viết).


Ở trong nước có Thiền sư Thích Thanh Từ, trước ngài ở trong đoàn Như Lai sứ giả của Giáo hội Tăng già Nam Việt, cùng với ngài Huyền Vi đi thuyết pháp khắp lục tỉnh. Sau này Thiền sư Thanh Từ chuyên giảng dạy về thiền. Ngài lập ra những tu viện Chơn Không, Thường Chiếu, Linh Chiếu... Cả hai vị Thiền sư Nhất Hạnh và Thanh Từ, thập niên 50 và 60 đều có ở chùa Ấn Quang, và có am thất ở vùng Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.


Các Thiền phái Việt Nam đều xuất phát từ Trung Hoa, dĩ nhiên mang đậm tính chất Thiền Trung Hoa, nhưng cũng có những điểm riêng của Thiền Việt Nam. 


Như Thiền Việt Nam không phân biệt các đặc điểm của từng Thiền phái, không phải vì các đại sư Trung Hoa theo Thiền phái nào của Trung Hoa mà các Thiền phái Việt Nam phải theo đúng phương cách tu tập của Thiền phái ấy. Thiền tông Việt Nam không chú trọng "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền" mà chú trọng vào sự tĩnh lặng, an định tâm thức để tiến đến sự lĩnh hội tâm mình, nhận biết khổ, vô ngã, vô thường mà Đức Phật đã dạy. Các đại thiền sư Việt Nam thường là thi sĩ, những học giả tạo ra nhiều tác phẩm nghiên cứu, luận giảng Phật học. Các công trình của chư vị là đóng góp lớn lao cho Phật giáo cũng như cho Văn học Việt ...

Nguyễn Đông A

(Còn tiếp - Phần 2)