Wednesday, July 26, 2017

Hậu của thuyết tiến hóa


...

Hậu thuyết tiến hoá

Khẩu thị tâm phi


Khẩu thị tâm phi, ý nghĩa là miệng nói thế này, trong lòng lại nghĩ thế khác, miệng và tâm không thống nhất với nhau. Người như thế xưa kia gọi là tiểu nhân trong số bọn tiểu nhân. Người như thế đối với Vua chắc chắn không trung thành, đối với cha mẹ...


Khẩu thị tâm phi, ý nghĩa là miệng nói thế này, trong lòng lại nghĩ thế khác, miệng và tâm không thống nhất với nhau. Người như thế xưa kia gọi là tiểu nhân trong số bọn tiểu nhân. Người như thế đối với Vua chắc chắn không trung thành, đối với cha mẹ chắc chắn bất hiếu, kết giao bạn bè chắc chắn không đáng tin cậy, gặp lúc khó nạn chắc chắn là kẻ bất nghĩa.
Người xưa có câu: “Trời cao nghe thấy tất cả”, chính là nói rằng Thượng Thiên có thể nghe thấy và giám sát tất cả việc thiện ác trong thế gian, căn cứ vào đó mà ban phúc hay giáng họa. Bởi vậy, một người nếu khẩu thị tâm phi, dẫu nhất thời có lừa gạt được người ta, nhưng Thần Phật tại các không gian khác đều thấy chân tướng mọi chuyện một cách hết sức rõ ràng. Những trò khôn khéo, giấu diếm che đậy, hay xảo quyệt lừa lọc đều chỉ là tự lừa dối mình và lừa dối người khác mà thôi.

Đừng như cốc nước nhỏ,hãy là mặt hồ lớn!


Đừng như cốc nước nhỏ,hãy là mặt hồ lớn!
.
Một chàng trai trẻ đến xin học một vị cao tăng. Anh lúc nào cũng bi quan và phàn nàn về mọi khó khăn. Đối với anh, cuộc sống chỉ có những nỗi buồn, vì thế học tập cũng chẳng hứng thú gì hơn.
Một lần khi...
.
Một chàng trai trẻ đến xin học một vị cao tăng. Anh lúc nào cũng bi quan và phàn nàn về mọi khó khăn. Đối với anh, cuộc sống chỉ có những nỗi buồn, vì thế học tập cũng chẳng hứng thú gì hơn.

Một lần khi chàng ta than phiền về việc mình học mãi mà không tiến bộ, vị hiền sư im lặng lắng nghe ,lát sau đưa cho anh một thìa muối thật đầy và một cốc nước nhỏ rồi yêu cầu chàng trai uống thử.

- Cốc nước mặn chát. Chàng trai trả lời

Vị cao tăng dẫn anh ra một hồ nước gần đó và đổ một thìa muối đầy xuống nước rồi cũng với yêu cầu tương tự.

- Nó chẳng hề mặn lên chút nào. Chàng trai nói khi múc một ít nước dưới hồ và nếm thử.

Cuối cùng vị cao tăng chậm rãi nói:

“Con của ta, ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống. Và những khó khăn đó giống như thìa muối này ,tuy nhiên mỗi người lại chọn cách hoà tan khác nhau.

Những người có tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm họ mất đi niềm vui và sự yêu đời. Nhưng với những người tâm hồn chỉ nhỏ như một cốc nước họ sẽ tự biến cuộc sống của mình trở thành đắng chát và chẳng bao giờ học được điều gì có ích.

Bởi vậy khi đớn đau,cách tốt nhất con có thể làm là hãy giải tỏa cảm giác của mình . Đừng như cốc nước nhỏ,hãy là mặt hồ lớn.”

Tui thèm được dặn như vầy!...


Các con thân mến, Viết những điều căn dặn này, cha dựa trên 3 nguyên tắc như sau:
1. Đời sống là vô thường, không ai biết trước mình sống được bao lâu, có những việc cần, nếu được nói ra sớm để hiểu thì hay hơn.
2. Cha là cha của các con, nếu không...


Các con thân mến, Viết những điều căn dặn này, cha dựa trên 3 nguyên tắc như sau:

1. Đời sống là vô thường, không ai biết trước mình sống được bao lâu, có những việc cần, nếu được nói ra sớm để hiểu thì hay hơn.

2. Cha là cha của các con, nếu không nói ra thì chắc không ai nói rõ với các con những việc này đâu!

3. Những điều căn dặn để ghi nhớ này là kết quả của bao kinh nghiệm xương máu, thất bại, đắng cay trong cuộc đời của chính bản thân mà cha ghi nhận được, nó sẽ giúp các con tránh những nhầm lẫn hoang phí trên con đường trưởng thành.
Dưới đây là những điều nên ghi nhớ trong cuộc đời:

1./ Nếu có người đối xử với con không tốt, đừng thèm để tâm cho mất thời giờ. Trong cuộc đời này, không ai có bổn phận phải đối xử tốt với con cả, ngoại trừ cha và mẹ của các con. Nếu có người đối xử tốt với con, ngoài việc các con phải biết ơn, trân quý, các con cũng nên thận trọng một chút, vì người đời thường làm việc gì cũng có mục đích của nó, chớ có vội vàng cho là bạn tốt của mình ngay.

2./ Không có người nào mà không thể thay thế được cả, không có vật gì mà nhất thiết phải sở hữu, bám chặt lấy nó. Nếu hiểu rõ được nguyên lý này, thì sau này, lỡ người bạn đời không còn muốn cùng đi trọn cuộc đời, hay vì lý do gì con bị mất đi những gì trân quý nhất trong đời, thì cũng nên hiểu, đó không phải là chuyện trời sập.

3./ Đời người ngắn ngủi, nếu hôm nay ta để lãng phí thời gian, mai đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi! Cho nên, nếu ta biết trân quý sinh mạng của mình càng sớm, thì ta được tận hưởng cuộc đời mình càng nhiều hơn. Trông mong được sống trường thọ, chi bằng mình cứ tận hưởng cuộc đời ngay từ bây giờ.

4./ Trên đời này chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chỉ là một cảm xúc nhất thời. Cảm giác này, tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh mà biến thiên, thay đổi. Nếu người yêu bất diệt rời bỏ con rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư mình từ từ lắng đọng, cái đau khổ cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi. Không nên cứ ôm áp cái ảo ảnh yêu thương mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình!

5./ Tuy có nhiều người trên thế giới này thành công, nổi tiếng mà chẳng có học hành nhiều, có bằng cấp cao, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là không cần học hành nhiều sẽ thành công. Kiến thức đạt được do việc học hành, giáo dục là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp với bàn tay trắng, nhưng không thể trong tay không có tấc sắt. Nên nhớ kỹ điều này !

6./ Ba không yêu cầu các con phải phụng dưỡng ba trong nửa quãng đời còn lại của ba sau này. Ngược lại, ba cũng không thể bảo bọc nửa quãng đời sau này của các con. Lúc các con đã trưởng thành, độc lập, đó cũng là lúc ba đã làm tròn thiên chức của mình. Sau này, các con có đi xe bus công cộng hay đi ô tô nhà, các con ăn súp vi cá hay ăn mì gói, đều là trách nhiệm của các con.

7./ Các con có thể yêu cầu mình phải giữ chữ tín, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ tín với mình. Các con có thể yêu cầu mình phải đối xử tốt với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử tốt với mình. Mình đối xử người ta thế nào, không có nghĩa là người ta sẽ đối xử lại mình như thế ấy. Nếu không hiểu rõ được điều này, sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình.

8./ Trong hai mươi năm qua, ba tuần nào cũng mua vé số, nhưng vẫn nghèo trắng tay. Điều này chứng tỏ, muốn phát đạt, phải siêng năng làm ăn mới khá được. Trên thế gian này, không có cái gì miễn phí cả.

9./ Sum hợp gia đình, thân thích đều là duyên phận, bất luận trong kiếp này chúng ta sống chung với nhau được bao lâu, như thế nào, nên trân quý khoảng thời gian chúng ta được chung sống với nhau. Kiếp sau, dù ta có thuơng hay không thương, cũng không có dịp gặp lại nhau đâu”.

Một nước Nhật...





Xuất phát từ Hà Nội, sau một chuyến bay đêm hơn bốn tiếng đồng hồ, chúng tôi bắt đầu một ngày mới trên chiếc xe từ sân bay Narita về Tokyo. Không khí dịu mát như một ngày cuối thu đầu đông ở đồng bằng sông Hồng, song cái lạnh ở đây lại có khí vị vùng biển bắc, cái cảm giác mà tôi cảm nhận khi đến Leningrad vào năm 1988.
Nhìn chung quanh, thấy khung cảnh thoáng rộng sạch sẽ, cây cối đạm bạc. Ghé lại một trạm bên đường để xe mua xăng, bắt gặp không khí của nước Nhật bình thường, người nào người nấy chăm chú vào công việc.
Có cái lạ là, khi đến Tokyo, tôi cũng lại gặp một khung cảnh vắng lặng như vậy. Không những trên đường người đi bộ thưa thớt mà cả ô tô đi lại cũng ít. Trong khi đó, lại biết rằng Tokyo có đến 20 triệu dân và hàng ngày có đến 40 triệu người lai vãng. Nơi tôi tới chỉ là ngoại ô chăng? Thành phố chính ở đâu? Như đã đoán được thắc mắc của tôi, người hướng dẫn du lịch sớm giải thích, đây chỉ là phần trên mặt đất, còn trong lòng đất có đến bốn thành phố nữa. Ở đó cũng có giao thông, xe điện ngầm, những phố buôn bán; ở đó mặc dù rất đông, nhưng rất trật tự.
Ngày đầu xa lạ
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến tham quan là phía ngoài hoàng cung Nhật. Cũng như mọi người dân nội địa, chúng tôi không được vào tham cung điện chính của hoàng gia, chỉ được đứng và quan sát từ xa và nghe người giới thiệu kể chuyện lại về một cuộc sống rất khổ hạnh của những người sống trong cung điện đó.
Người Nhật quen chấp nhận tình trạng cách ly này bởi họ hiểu những người sống trong hoàng cung phải nhận vai hình mẫu của nước Nhật, có nghĩa phải chịu rất nhiều áp lực. Có những người con gái trong đó cảm thấy thật nhẹ nhõm nếu lấy được người chồng dân thường, ra khỏi hoàng cung, để được sống như mọi người bình thường.
Buổi chiều chúng tôi đến thăm ngôi nhà của Tòa thị chính, ở đây có tháp truyền hình cũ, từ đó có thể nhìn ra cả Tokyo.
Có điều mất vui là ngay trong buổi chiều đầu tiên này, đoàn du lịch chúng tôi đã có một người bỏ trốn. Khi cả đoàn lên tháp rồi lần lượt xuống dần thì anh ta lẩn mất. Sau mới biết, từ Hà Nội anh ta đã chuẩn bị để làm việc này. Cái ba lô còn lại trên xe ô tô của anh nhẹ tênh. Theo sự giải thích của người hướng dẫn, có lẽ đây là một người Việt được bố trí sang Nhật để trộm cắp thuê. Dân Việt có hộ chiếu bên đó, khi phát hiện ăn cắp thì sẽ bị trục xuất khỏi nước Nhật. Nên họ phải thuê những người trong nước sang làm chân rết. Người này có bị tống về thì cũng không mất đầu mối.
Trong lúc vẩn vơ chờ làm các thủ tục, khoảng hơn một tiếng đồng hồ, tôi nhìn quanh khu Tòa thị chính, thấy một không khí vắng vẻ. Nhớ nhất là hình ảnh một cô gái dắt hai con chó đi đường. Cô chăm sóc chúng hết sức cẩn thận. Khi chúng đói lấy thức ăn và theo dõi chúng ăn, bình thản chờ đợi như bà mẹ đang đi chơi với những đứa con thân yêu của mình.
Tâm thế mới của phụ nữ Nhật
Để giải tỏa nỗi chán chường của bọn tôi, người hướng dẫn giới thiệu một tình thế của người dân Nhật mà trước kia chúng tôi không thể tưởng tượng nổi.
Anh cho biết , hiện nay ở nước Nhật có đến 62% người sống độc thân. Nếu nhìn trên đường, chúng ta luôn thấy những người đàn ông chăm chú nhìn về phía trước. Họ buồn, như là một thứ nhân vật phụ của cuộc đời. Còn chính phụ nữ mới là những người đầy sức sống và thách thức.
Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật –từ nhỏ, đã được nghe câu nói ghi nhận sự tận tụy của người phụ nữ Nhật với gia đình.
Sau chiến tranh, khi nước Nhật bắt tay khôi phục kinh tế, người đàn ông tập trung vào công việc của mình và ít khi về nhà trước 7h tối. Mọi việc liên quan tới gia đình và con cái đặt cả lên vai vào người đàn bà. Họ tự nguyện làm như thế cả đời.
 Hôm nay đây tôi còn chứng kiến cảnh một đôi ông bà già trên đường; khi tới chỗ nghỉ, người phụ nữ rút chiếc khăn mù xoa trong túi ra mời chồng mình ngồi.
 Nay mẫu phụ nữ loại đó chỉ còn thưa thớt.
Bề ngoài người phụ nữ Nhật không tự biểu hiện lộ liễu như người Việt. Màu sắc phần lớn trang phục là màu trắng, màu xám và màu đen. Như đang tự giấu mình đi. Không ai tô son, trát phấn… Nhưng cuộc sống bên trong thì, theo anh hướng dẫn viên, thực sự nồng nhiệt. Khoảng mươi, mười lăm năm gần đây, phụ nữ Nhật nổi loạn, nhiều người không lấy chồng vì không thích phụ thuộc vào gia đình chồng và rất tự lập trong đời sống riêng tư.
Ở Nhật, đời sống tình dục được coi bình thường như cơm ăn nước uống và phụ nữ có phố đèn đỏ của mình. Ở đó, đối tác của họ là những thanh niên mới lớn và lấy việc thỏa mãn nhu cầu phụ nữ làm nghề phụ. Người ta có cách giữ bí mật cho cả hai bên.
Trong túi đàn bà, từ em thanh nữ mới lớn đến đám sồn sồn tuổi trung niên luôn có ca-pốt. Và họ chủ động tìm tới những đối tượng để có thể thỏa mãn những khát khao bất chợt nhưng chính đáng.
Trong các món quà trao nhau nhân ngày lễ tết, chính phụ nữ là màu nóng, còn nam giới được tượng trưng bởi màu lạnh.
9 – 6
Niềm vui với những công việc bình thường
và tính tự lập được rèn từ nhỏ
Buổi sáng chủ nhật, bọn tôi đến khi vui chơi Disney Land nổi tiếng. Ấn tượng lớn nhất, vẫn là những người phụ nữ làm công việc như hướng dẫn người đi tham quan và bảo vệ trật tự chung quanh đó. Những công việc có vẻ tẻ nhạt như thế được người Nhật làm với tất cả niềm vui và sự háo hức khiến người Việt chúng ta gần như không thể hiểu nổi. Đứng bên cạnh những đoàn xe lửa làm theo lối cổ, các nhân viênphục vụ không những ân cần giúp đỡ cho người lên xe, mà còn tình cảm vẫy chào khách lên đường, rồi lại hào hứng đón khách xuống khi hết vòng quay.
Người hướng dẫn du lịch giải thích thêm với chúng tôi, người Nhật rất nghiêm túc trong việc công. Tất cả công chức đi làm đều mặc Âu phục. Với họ, làm công chức không phải chỉ để kiếm tiền mà để phục vụ xã hội, việc làm hợp đạo nghĩa làm người.
Một ấn tượng khác, là trẻ con trên nước Nhật rất ngoan và quen tự lập. Trên đường mỗi trẻ có túi thức ăn riêng, tự lấy thức ăn khi muốn. Thông thường các em đi theo người lớn rất đàng hoàng. Một ngày ở công viên không nghe tiếng khóc nào của bọn trẻ.
Người Nhật có tinh thần tự trọng cao độ. Trong hoàn cảnh nghèo khó, ít khi chấp nhận sự giúp đỡ của người khác mà làm được cái gì thì hưởng cái đó. Điều đó được rèn từ nhỏ. Ở trường nuôi dạy trẻ, từ lúc biết bò, đứa trẻ đã phải tự bò đến bàn thức ăn để lấy thức ăn. Ở lớp lớn hơn, đứa trẻ tự gấp lấy quần áo và lo giữ vệ sinh.
Từ chuyện giao thông tới chuyện pháp luật
Đã hơn chục lần đi theo các đoàn du lịch nước ngoài, tôi thấy trên xe thường người Việt Nam chỉ hay pha trò đùa bỡn, trêu chọc nhau, bàn chuyện ăn uống, nói tục. Đa số người mình đi du lịch để làm dáng, để tiêu tiền, không mấy ai tính chuyện đi để hiểu biết về xứ sở mà mình đặt chân tới. Những người hướng dẫn du lịch Trung quốc chẳng hạn, rất hiểu cái sự tầm thường đó. Trên xe, thể theo yêu cầu của người mình, họ nói những chuyện trong thâm cung bí sử, nhưng toàn thứ vụn vặt gây tò mò. Nói chung trình độ những người hướng dẫn cho các đoàn VN ở các nước gần ta rất thấp. Người có chí chắc đi học tiếng Anh tiếng Đức chứ chả ai chịu học tiếng Việt làm việc với các đoàn Việt.
May mắn lần này chúng tôi gặp người hướng dẫn khác hẳn. Anh cũng là người Việt. Sang Nhật học, sau đó nhập quốc tịch Nhật và đưa cả vợ con sang đó. Trong những lúc rỗi trên xe, anh Đức (tôi không biết họ, chỉ nhớ tên) giới thiệu với chúng tôi rất nhiều về đặc sắc của nước Nhật, và điều đó rất cần thiết với những người từ Việt Nam tới.
Ví dụ có lần anh nói về chuyện giao thông trên đường.
Chúng ta biết rằng người Nhật đi lại rất từ tốn và người ta nhường đường nhau khi có việc cần tranh chấp. Trong câu chuyện của mình, anh Đức có lưu ý thêm một điều. Luật pháp được soạn thảo rất tỉ mỉ và nói cho cùng là rất nhân bản. Một mặt nhà nước bố trí cảnh sát theo dõi tốc độ của xe trên đường, nhưng mặt khác, họ cho phép các nhà sản xuất cung cấp cho lái xe các thiết bị cần thiết có khả năng cho biết  chỗ nào cảnh sát giao thông đứng bắn tốc độ, để tự động điều chỉnh lại. Tức là người làm luật muốn bảo vệ quyền được đi nhanh hơn của xe cộ trong hoàn cảnh cho phép.
Sự áp đặt luật pháp của những người cầm quyền ở đây cũng là rất mềm dẻo.
Khi có người lái xe phạm lỗi, cảnh sát, từ lúc yêu cầu giữ lại đến lúc lên xe để đặt vấn đề phạt, đều có thái độ lịch sự tôn trọng đối tác, tìm cách thân thiện bàn bạc, chứ không phải một chiều hạch sách rồi  muốn bắt người ta thế nào cũng được. Khi không thống nhất được với nhau, họ để dành quyền phán xét cho tòa án,– cố nhiên đó không phải loại tòa án bao giờ cũng nhăm nhăm bênh cảnh sát như người nước mình. Danh tính của những người bị phạt không bao giờ bị làm lộ.
Tôi cho đó mới là sự tôn trọng, sự khuyến khích người dân sống và làm theo luật pháp một cách hữu hiệu.
Pháp luật – một bên nặng về răn đe
trừng trị và một bên biết “cận nhân tình”
Có lần đọc cuốn Đông Á – Đông Nam Á - Những vấn đề lịch sử và hiện tại (nx b Thế giới, 2004), thấy ông Vũ Minh Giang (Đại học Quốc gia Hà Nội) nói tới những điểm tương đồng trong tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có nhấn mạnh cả hai bên đều chú trọng pháp luật (sách trên tr. 62).
Hôm nay nhớ đến đoạn này bỗng thấy phì cười. Vì sự thật trong khi ở nước người, chính quyền hết sức tôn trọng và đặt mình vào trong pháp luật thì ở mình, pháp luật được soạn ra để áp dụng với dân, chứ nhân viên công quyền đều hiểu ngầm rằng mình là người đứng ngoài. Mà người dân cũng vậy, thấy pháp luật là chuyện phiền phức, song mặc nhiên chấp nhận, lại còn tìm thấy niềm vui trong việc làm ngược pháp luật. Trừng phạt răn đe nặng nề đến độ dã man được xem như một sự cần thiết.
Để hiểu tính mềm dẻo mà chặt chẽ của pháp luật ở Nhật Bản, hãy trở lại câu chuyện về nhu cầu phụ nữ, phố đèn đỏ, mua dâm và bán dâm. Một mặt theo phong tục tập quán cổ, luật nước Nhật cấm tất cả sự tiếp xúc nam nữ ở dạng trần trụi. Thế nhưng đồng thời họ vẫn thấy con người Nhật Bản đã thay đổi, nên các nghị sĩ khi làm luật đã nghĩ ra cách để bảo vệ sự tiếp xúc này, không để dân bị ràng buộc vào luật một cách máy móc. Ví dụ như họ sẽ phạt nếu một trong hai bên không có vật lạ trong người khi tiếp xúc. Mà vật lạ này hiểu theo nghĩa rất rộng, nếu phụ nữ có một vòng đeo tay hoặc người đàn ông có một cái răng giả thì tức là đã không phạm luật. Thế thì còn phạt được ai nữa? Những điều này, theo tôi rất nhân đạo. Còn thuần túy truy bức như ở ta là bất cận nhân tình và sẽ sinh ra gian dối.
Các cửa hàng đồ cũ và thói quen cộng tác trong mọi việc
Nhân khi vào cửa hàng đồ cũ, anh Đức giới thiệu cho chúng tôi biết ở Nhật, loại hàng này có cả một hệ thống phân phối. Những năm 70 – 80 người dân bình thường có thói quen thải loại đồ cũ ra theo hình thức rác và người Việt Nam sang nhặt mang những đồ cũ đó đem về trong nước. Nay họ có ý thức thu gom và phân phối lại. Nhân đây, anh Đức kể về việc tổ chức làm ăn ở xứ này. Là khi có một công việc hợp lí thì nó cũng được phổ biến khắp nước Nhật. Những người cùng ý tưởng tự tổ chức thành những công ty, không có người nào đứng ngoài công ty đó mà có thể cạnh tranh với họ được. Người Việt mình dành được miếng mồi thì ăn lẻ, không ai cộng tác được với nhau, mà chỉ dìm dập nhau, phá nhau. Ở Nhật, nếu một người có sáng kiến chung thì sẽ đưa ra để phục vụ lợi ích chung.
10 – 6
Chung quanh núi Phú Sĩ
Tối hôm qua, ngủ đêm tại khách sạn thuộc khu Hà Khẩu Hồ (tôi đọc theo âm Hán Việt) thuộc khu vực núi Phú Sỹ, chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào gia đình người Nhật. Ăn một bữa cơm theo kiểu gia đình người Nhật vẫn ăn. Xong, được bố trí đến khu vực tắm. Nam chung một bên, nữ một bên, nhưng đã xuống tắm phải bỏ hết quần áo. Đêm, được bố trí ngủ lại căn phòng như của người Nhật. Việc xâm nhập sâu vào phong tục ăn ở như thế trong những lần đi các chuyến khác, bọn tôi không có dịp thực hiện.
Sáng dậy, đi quanh hồ, tôi chợt nhận ra rằng nhà cửa ở đây cũng nhô ra thụt vào mà không có lớp lang trật tự như mạn Giang Nam bên Trung Quốc. Vườn hoa ở các gia đình hay các công sở không nổi bật lên vẻ rực rỡ mà trông hơi có vẻ khổ hạnh và chỉ gợi chú ý bởi lùm cây hoặc một tảng đá nào đấy. Tất cả khu vườn quy tụ chung quanh vào vật trung tâm đó. Ngoài ra cây cỏ trong vườn thì kém, cỏ mọc rườm rà, thiếu một sự xử lý công phu. Các công viên chỉ lo tạo ra sự kì bí mà tảng đá có vai trò vật chủ và mối liên hệ giữa đá và cây là nhân tố chính gợi nên một vẻ đẹp.
Ngồi xe lên núi. Các tài liệu du lịch đều nói rằng Phú Sĩ là biểu tượng của đất nước mặt trời mọc. Trước khi lên đến trạm 5 ở độ cao 2000m, chúng tôi phải vượt qua hàng chục cây số rừng. Nhưng khi đến nơi, ngôi miếu trên trạm 5 đó khá đơn sơ. Nói chung, chùa chiền của Nhật không hào nhoáng, lộng lẫy như đền chùa của Trung Quốc. Thu hút du khách nhất là việc đứng ở đấy chiêm ngưỡng cả ngọn núi trong tuyết phủ.
Đối với người Nhật, núi Phú Sỹ là biểu tượng cao nhất của sự thiêng liêng. Người ta theo dõi để không ai có thể lấy đi hòn đất nào chung quanh núi. Đã có những khách nước ngoài đến, định lấy những hòn đất đi và đều bị phát hiện.
Chung quanh núi là khu vực huyền bí, người ta nói có những người Nhật đã đến đây để sống những ngày cuối đời, tức là tự tử ngay trong khu rừng trùng điệp mà mãi về sau người ta mới phát hiện ra. Số người này đang tăng hàng năm.
Ấn tượng sau nửa ngày ròng ngồi ô tô
Từ giã Phú Sỹ, bọn tôi tới Owakudani, nơi có vết tích của miệng núi lửa phun trào cách cây 3000 năm. Sau đó, là chặng đường dài tới Nakoné và Nagoda.
Trước lúc qua Nhật, một người quen cũ đã nói rằng, do du lịch bụi, chắc là bọn tôi không có điều kiện để sử dụng những phương tiện hiện đại nhất như tàu cao tốc và phải di chuyển từ địa điểm nọ đến địa điểm kia bằng ô tô. Ông nói điều đó với sự ái ngại vì ở Nhật số người di chuyển bằng ô tô rất ít. Nhưng đối với tôi, cảm tưởng là được ngồi ô tô đi trên những con đường nhựa nhẵn bóng và hiện đại của nước Nhật cũng đã sung sướng lắm. Nữa là, sau một buổi chiều như thế, lại có may mắn gần như được nhìn gần vào một nước Nhật và hiểu thêm điều người ta hay nói “Xứ này nghèo về tài nguyên và chỉ có một thiên nhiên khắc khổ, nhưng đã chinh phục được thiên nhiên khắc khổ đó để trở thành một xứ giàu có.”
Nhìn một hai ngôi nhà lắt lẻo giữa một triền núi xa, tôi hỏi Đức họ sống ra sao thì được trả lời:
– Một gia đình Nhật định cư ở đâu thì chính phủ Nhật có trách nhiệm làm đường tới đó, bảo đảm hàng hóa lưu thông tới đó để họ có thể sống bình đẳng với mọi người.
Có một chuyện mà ở nhà tôi đã biết nhưng chưa thấy hết ý nghĩa của nó, đó là việc người Nhật không khai thác tất cả những rừng cây và vùng mỏ cũng khá giàu có của mình. Tất cả những đồ gỗ ở đây đều nhập từ nguồn lâm sản nước ngoài, cũng như các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp của họ. Đối chiếu với cách nghĩ Việt Nam, kể ra đây cũng là một sự lạ. Và lạ hơn hết là người Việt chúng ta còn cho chuyện tàn phá tài sản thiên nhiên là chuyện thường, không bán hết đi thì lấy gì mà ăn.
Nông thôn đô thị chung một mặt bằng
Lúc này trước mắt du khách không còn là một nước Nhật của các cao ốc và các khu đô thị thoáng đãng. Vùng đất nằm rải rác giữa núi non và bãi biển không có gì là hấp dẫn và mĩ lệ như các vùng biển của Việt Nam mình. Nhưng ở bất cứ nơi nào có điều kiện thì người nông dân Nhật vẫn cần cù sản xuất. Cảm giác còn lại trong tôi là một nước Nhật giống như một mặt bằng, giữa nông thôn và thành thị gần như không có sự chênh lệch. Nay, là thời, theo Đức kể, người nông dân Nhật làm ruộng bằng cách đi thuê các xí nghiệp nông nghiệp làm cho họ. Và đã có các hãng lớn chuyên làm nông nghiệp phụ trách giúp họ từ việc chọn giống, cày bừa đến bón phân và thu hoạch. Người nông dân chỉ việc ở nhà dùng tiền của mình đầu tư chứng khoán.
Người Nhật đặc biệt lo bảo vệ nguồn lương thực của mình, tạo cho xứ sở một thứ thức ăn không những ngon lành mà còn bảo đảm chuẩn khoa học không gạo nước nào có thể có được. Đã có những thời gian mà chính phủ Nhật do áp lực quốc tế phải nhập một số gạo của các nước khác, khi mang về phân phối cho dân thì không đâu người ta lấy, đến cả cho không cũng không ai nhận. Cuối cùng, số gạo đã mua buộc phải đem đi dùng làm hàng viện trợ cho các nước khác.
Đặt người Việt bên cạnh người Nhật
Cũng nhân thời gian rỗi trên đường xa, Đức kể với tôi về chuyện những người Việt Nam ở Nhật. Đức cho biết thật ra sau 4-1975, số người Việt sang Nhật không phải là ít, nhưng số có thể trụ lại được ở Nhật thì không nhiều và phần lớn là họ phải bỏ qua bên Úc hoặc bên Mĩ làm ăn. Việc du nhập vào cộng đồng Nhật, đòi hỏi sự nỗ lực đặc biệt mà người Việt không quen, chưa kể tiếng Nhật với nhiều người là khó học.
Chưa quen là như thế nào? Dù là mới tiếp xúc với người Nhật và văn hóa Nhật một cách đơn sơ, tôi vẫn có cảm tưởng người Nhật với người Việt Nam như hai đối cực, người nọ là thế giới đảo ngược của người kia.
Người Nhật có tinh thần gắn bó với xã hội, cấu kết với cộng đồng còn người Việt khôn lỏi, chạy vặt.
Người Việt thích phô trương còn người Nhật giấu mình sau vẻ ngoài bình lặng.
Người Việt ồn ào, lắm chuyện coi nơi công cộng là chỗ tự do buông thả còn người Nhật sợ nhất làm phiền người khác cũng như là bị làm phiền.
Bữa qua Miến Điện, tôi nhận ra một điều là không hiểu sao người bên đó có vẻ ít nói, trên đường không có cảnh vừa đi vừa cầm điện thoại tán chuyện. Có thể người Miến Điện không có tiền mua các loại máy mới? Nhưng Nhật là một nước giàu có. Sao dân họ vẫn không có thói nói lắm nói nhiều và xả ra cả khối lượng rác âm thanh ngập ngụa trên mọi ngả đường? Chợt nghĩ chính sự nói lắm nói nhiều nói một cách ba vạ đã giết chết sự suy nghĩ của người mình. Nó làm cho chúng ta thành một xã hội câm nín trước các vấn đề rất lớn đang phải đối mặt.
Xuất khẩu lưu manh
Hôm nay có đến hơn một giờ đồng hồ liền,  Đức toàn kể chuyện người Việt sau 4-1975 tràn sang Nhật làm những việc gian dối như cờ bạc trộm cắp ra sao, cảnh sát Nhật đã từng bước đấu trí với người Việt để vô hiệu hóa các đồng bào lưu manh của chúng ta thế nào.
Chuyện đấu trí ấy tôi định ghi mà không sao theo dõi kịp nên đành bỏ. Chỉ nhớ nhất một chi tiết. Có nhiều người Việt sau khi kiếm bẫm bằng con đường bất chính trở ,liền lấy cái vốn thu được từ nước ngoài về làm vốn kinh doanh và trở thành đại gia.
Từ việc này nẩy ra hai ý nghĩ bổ sung:
1/ Ở các xã hội lành mạnh, đám nhà giàu là những người con ưu tú của dân tộc, họ như đầu tầu kéo cả cộng đồng đi theo. Ở một xã hội dở dang rồi biến chất như ở ta, một thời gian dài không công nhận tài sản cá nhân, thì ngược lại, đám nhà giàu phần lớn là đám lưu manh, khoác áo quan chức làm việc lưu manh. Họ phất lên trong chiến tranh bằng cách buôn lậu những hàng quốc cấm xuyên quốc gia. Với những đồng tiền kiếm được bằng các thủ đoạn xấu xa, khi trở về nước làm kinh tế, họ có góp phần thúc đẩy sự làm ăn và vì thế cả người dân lẫn chính quyền hoan nghênh họ. Nhưng lùi xa mà nhìn, thì thấy đóng góp của những người này không thấm là bao so với sự phá hoại những nguyên tắc đạo đức, tức những tác hại lâu dài, mà họ mang lại.
2/ Ngoài số đại gia trên, hiện còn không ít người Việt, đang sống vất va vất vưởng theo kiểu ăn cắp vặt, buôn lậu, làm thuê làm mướn ở xứ người.
Nhớ hồi chống Mỹ trong đầu mọi người dân luôn được nung nấu cái ý nghĩ Ta chiến đấu thế này không phải chỉ vì ta. Ta đang chiến đấu cho cả thế giới. Ta đang trở thành lương tâm nhân loại… .
Kỳ cục thế mà ai cũng tưởng thật và ai cũng thích.
Được những tư tưởng kiểu đó quấn chặt vào đầu, nhiều người Việt sau 4-75 ra nước ngoài, tự cho phép mình làm tất cả những việc xấu xa nhất, bất chấp luật pháp nước sở tại và những nguyên tắc đạo đức thông thường. Một cuộc xuất khẩu thói lưu manh đã kéo dài chưa biết bao giờ chấm dứt.
11 – 6
Thăm các di tích lịch sử
Tham quan chùa Thanh Thủy. Ấn tượng nhất không phải là ngôi chùa, mà là cách dựng công trình tôn giáo này. Cách nó bám vào chân hòn núi đá. Cũng lại là một biểu tượng của tinh thần bám trụ của con người vào một thiên nhiên khắc nghiệt.
Buổi chiều tới ngôi Chùa Vàng. Đọc chữ Hán, thấy chính ra chùa này phải gọi là Kim Các tự mới đúng. Tôi thích cả không gian chung quanh chùa và cả cái cách  người ta tạo ra ấn tượng đối với người tới tham quan.
Có một điều  tôi thấy tin, là những chi tiết người ta trình bày về ngôi chùa, cái giá trị cổ kính của nó. Các di tích ở Việt Nam thường có những bảng giới thiệu rất luộm thuộm, nhiều lúc có cảm tưởng do những người không hiểu biết viết ra.
(Còn nhớ là lần vào Văn miếu năm 2010, khi đọc tiểu sử Khổng Tử,  thấy  viết là Đức Thánh Khổng “có đến bốn tác phẩm gọi là Tứ Thư”. Điều này sai vì bốn tác phẩm đó có tên là Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Sao lại nói cuốn Mạnh Tử do Khổng Tử viết được?)
Một niềm tin khác, khi đến thăm các công trình kiến trúc cổ, là cảm thấy chắc chắn nó giống như là ban đầu nó đã được hình thành. Trong một cuốn sách về văn hóa Nhật, tôi đọc thấy người ta nêu lên một nguyên tắc khi trùng tu các công trình lịch sử. Là bất cứ thời nào, muốn làm lại các công trình cũ thì cũng phải làm đúng như cái ban đầu, kể từ hình dáng, các chi tiết trình bày cho đến chất liệu kiến trúc.
Một cách tự nhiên, tôi có cảm tưởng, chúng ta có thể tin được nền sử học Nhật Bản, một niềm tin không thể có đối với nền sử học Việt Nam hiện nay.
Trong số các đoàn nội địa tới tham quan tại các công trình kiến trúc lịch sử, ở đâu tôi cũng gặp những đoàn học sinh do các giáo viên già dẫn đường và giới thiệu. Sau được nghe lại, thấy nói là trong chương trình học phổ thông, tất cả các học sinh có quyền được đi tham quan các di tích có ghi trong sử sách. Chi phí các chuyến đi ấy do nhà nước đài thọ và chỉ những người kinh nghiệm lâu năm trong nghề mới được giao việc hướng dẫn các em.
Tình hình này khiến người ngoại quốc hiểu thêm một điều là tại sao không bao giờ các di tích, các thắng cảnh ở Nhật lại có tình trạng tràn ngập khách tham quan như bên Trung Quốc. Hình như những người lớn tuổi của nước Nhật đã tham quan di tích này từ lúc nhỏ rồi, nếu có tham quan chỉ đi lại thôi. Còn ở Trung Quốc, các di tích thường bị lấp đầy bởi người nông dân của các tỉnh xa xôi mà họ muốn đến với các thắng cảnh. Giống như cánh du lịch bụi Việt Nam chúng ta, lấy đi làm cái mốt, đi chỉ để chứng tỏ rằng mình chẳng kém gì người.
Trở lại với quá khứ của Nhật Bản, tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi mối quan hệ của nước này với Trung Quốc. Một mặt thì cái ảnh hưởng ấy quá rõ và người Nhật không giấu điều này. Ai đó đã nói: “Người Nhật tìm ở Trung Hoa đức trầm tĩnh, vẻ hào hiệp và tính muôn màu muôn vẻ mà họ không thể có”. Mặt khác, suốt trong quá trình lịch sử, người ta cũng bắt gặp nỗ lực của người Nhật hướng theo cái tinh thần “trên cơ sở hoàn thiện mình,  dám là mình, vui với mình và không ghen tức với người nước ngoài”. Đó lại là điều  không thấy ở người Việt, văn hóa Việt.
Người Nhật làm du lịch
Những người tổ chức du lịch đã cố gắng cho chúng tôi biết được nước Nhật ở nhiều cung bậc khác nhau. Ví dụ về giao thông họ có bố trí cho chúng tôi ngoài chuyện thường xuyên ngồi trên ô tô, có lúc đi tàu thủy, có lúc đi tàu cao tốc.
Về ăn uống, ngoài những lối ăn nhanh theo kiểu buffet thì họ thường xuyên cũng cho chúng tôi vào những quán ăn tổ chức theo kiểu truyền thống. Ở đó, bọn tôi ngồi bệt xuống đất, chân đặt lên cái hố được khoét rộng chung cho cả bàn, trên bàn đặt nồi lẩu. Cái thú vị nhất đối với bọn tôi nói ra kể cũng phàm tục song cũng xin kể ra kể đây. Thú vị vì, nhìn vào cái nồi lẩu, thịt không bao giờ thiếu. Khi ăn hết, nếu cần chúng tôi có thể gọi thêm mà không phải trả thêm tiền.
Lúc đầu bọn tôi cũng lo lắng có những món ăn của Nhật không hợp khẩu vị, sau thì thấy cũng thích nghi dễ dàng.
Trong các chương trình như là thêm vào buổi chiều hôm nay, có việc chúng tôi đến thăm cửa hàng kimono. Ở đó, khách du lịch vừa có dịp tham quan cả cơ sở người ta đang dệt vải để làm ra kimono, và cũng có một buổi biểu diễn thời trang, trong đó những người Nhật trình bày cách sử dụng trang phục này.
Điều “rất Nhật” ở đây lại chính là cái bề ngoài “không chuyên nghiệp”, nó ngay lập tức gợi nên một thoáng thất vọng ở những người Việt thạo đời. Ra vào đi lại trên sân khấu lúc này không phải là những cô gái chuyên môn trình diễn thời trang, mà chỉ những người phụ nữ bình thường, tưởng như họ đang đi ngoài phố, vừa được mời vào.
Phụ nữ Nhật nói chung không đẹp, rất ít khi chúng tôi phải sững sờ cả người như khi sang Trung quốc, bắt gặp các cô gái còn chất quý phái hôm qua. Những cô gái Nhật biểu diễn thời trang ở xưởng làm và bán kimono cũng không thể gọi là đẹp. Họ trình diện trước du khách như những người thông minh, nghiêm túc, tự trọng, có sự cởi mở với người bên ngoài, mà vẫn giữ cho riêng mình đời sống nội tâm. Những bộ trang phục họ mang ra trình diễn hôm đó không phải là những hàng đắt tiền mà đám dân du lịch Việt Nam – những người đang thèm tiêu tiền – háo hức. Nhưng họ đâu có tính chuyện câu khách. Họ chỉ muốn giới thiệu một nét văn hóa Nhật.
Những dư âm của cuộc động đất
Tiếp tục câu chuyện về người Nhật trong sự so sánh với người Việt Nam. Sự kiện động đất xảy ra cách đây mấy năm vẫn còn trong kí ức người Nhật như chuyện mới xảy ra năm ngoái tháng trước hôm qua. Nhưng, chính lúc đó thì phẩm chất dân tộc của họ được bộc lộ.
Đức nói rằng  ở đây đã lâu, song chính anh cũng rất ngạc nhiên vì cách phản ứng của người Nhật với động đất.
Ví dụ như, khi Tokyo mất điện, người ta đi bộ về nhà có khi đến hàng vài chục cây số, cái cửa hàng bên đường tung hàng ra để phục vụ người đi lại, mặc dù họ không có tiền. Khách sạn cho người đi đường vào ở nhà và không tính tiền.
Sau đó, tinh thần và nghị lực của người Nhật cũng bộc lộ ở việc sự nhất trí của xã hội trong việc khắc phục hậu quả tai họa. Sau động đất, nhà nước cắt điện một số vùng thì các vùng khác cũng tự động cắt theo giúp nhà nước có được lượng điện dự trữ. Khi  đi làm việc, có lệnh chính phủ, công chức không dùng caravat để tránh giặt giũ nhiều, thì người thường cũng tuân theo .
Cả nước bao giờ cũng làm quá hơn so với mức chính phủ yêu cầu. Chỉ có câu khẩu hiệu nêu ra và viết trong các taxi: Nhật Bản hãy cố gắng. Mấy chữ ngắn ngủi thế thôi, mà người Nhật đã hiểu rất nhiều.
Trở lại với ý nghĩ mới hình thành trong tôi mấy ngày nay, hình như với người Việt Nam thì người Nhật ở dạng đảo ngược. Người mình sống trong sự cạnh tranh, phải lấy dối trá làm đầu khi quan hệ với nhau. Trong quan hệ với nhà nước và cộng đồng, càng trục lợi kiếm chác cho cá nhân càng tốt. Ở Nhật, giữa cá nhân và cộng đồng có niềm tin chắc chắn. Luôn luôn người ta tin rằng, những nỗ lực cá nhân của người ta sẽ được xã hội hiểu, những người tự trọng không thể làm khác.
12 – 6
Chuyện quanh những ngôi chùa
Ngày cuối cùng ở Nhật
Mấy hôm trước, chúng tôi đã đi qua những thành phố nổi tiếng của xứ sở này như Kyoto, nhưng dù thế cũng chỉ là lướt qua. Hôm nay cũng vậy, mang tiếng là được đến kinh đô cổ kính của nước Nhật là Nara, nhưng chúng tôi cũng chi được đi qua phố xá một quãng, sau đó được  dẫn đến thăm ngôi chùa cổ đọc theo chữ Hán là Đông Đại Tự.
Trên đường phố Nara, bắt gặp những ngôi nhà cổ, loại nhà một tầng mà chắc chắn đã có từ rất lâu đời. Trong việc xử lí những di sản này, chỗ khác của người Nhật vẫn rất rõ. Họ có sự bố trí thế nào để những ngôi nhà cổ rộng rãi hòa hợp tự nhiên với những cao ốc hàng chục tầng bên cạnh,– việc này gợi cảm giác những người sống trong ngôi nhà cổ là những cư dân lâu đời ở đất này, có thể là họ còn giàu có nữa kia, thì mới được ở trong những ngôi nhà đó.
Còn ở Việt Nam bên cạnh những cao ốc thường khi cũng có những ngôi nhà rách nát, làm hỏng hết cảnh quan chung. Những cuộc đền bù bất minh, hoặc tâm lý thấy ai giàu có là ghen lồng ghen lộn, ì ra ăn vạ…đã là nguyên nhân làm cho cái cũ cái mới không thể chung sống hòa hợp.
Hai bên đường tới Nara, du khách cũng bắt gặp rất nhiều ngôi chùa. Đây là một địa điểm được mệnh danh kinh đô của Phật giáo, đã từng là địa điểm tổ chức Đại hội Phật giáo thế giới.
Nhưng một chuyện buồn lại bắt đầu len vào, khó mà quên được. Đức hướng dẫn viên chỉ hai bên đường và nói rằng ở đây có rất nhiều cửa hàng bán đồ dùng dành cho các nhà sư. Anh kể tiếp, nhiều nhà sư Việt Nam đa đến Nara này, và điều mà người Nhật bản xứ đã sửng sốt là những nhà sư đó đã mua những trang phục đắt tiền nhất toàn loại những nhà sư các nước khác không dám mua.
Đức có người bạn đã đi theo đoàn Phật giáo ấy, chứng kiến cảnh mua bán của các vị sư. Với thói quen của người Sài Gòn, người bạn ấy có hai phản ứng. Một là lập tức tính sẽ tổ chức những của hàng tương tự ở Việt Nam để bán cho giới tu hành hám chuyện làm dáng. Hai là nhiều lúc nghĩ không muốn thành Phật tử nữa bời vì không hiểu vì sao sư mô Việt Nam lại trần tục đến như vậy.
Một chút so sánh và cảm giác về một nước Nhật quá xa xôi
Khi đi trên đất Nhật tôi hay nhớ lại những lần đến các xứ khác.
Du lịch Trung Quốc, đối với tôi như là một chuyến trở về nguồn. Ở đó tôi nhớ không chỉ là những lâu đài tráng lệ hay những viên lâm cổ kính sang trọng – không khí như trong phim Hồng lâu mộng – mà tôi còn thấy ở đây có những mặt trái, tức cả đời sống cùng cực của người lao động bình thường.
 Ở Bắc Kinh, tôi đã vào những ngõ nhỏ mà ở đó người ta , từng cụm dân trong hồ đồng,  phải dùng hố xí tập thể, và con đường quanh co là những mái nhà lợp tôn, lợp ngói cổ cái thấp cái cao như những hẻm nhỏ Hà Nội. Tôi cũng thấy người ta buôn gian, bán lận, nói thách, làm hàng giả theo lối làm tiền chém du khách không tiếc tay.
Bởi Việt Nam luôn là Trung quốc bị hạ thấp hẳn xuống thu nhỏ hẳn lại cái tốt bớt dần cái xấu tăng thêm, nên tôi càng hiểu những tệ hại của xứ mình không biết bao giờ mới khắc phục được.
Ngay cả với nước Nga nửa Âu nửa Á, tôi cũng thấy điều gì đó tầm thường dung tục. Hồi còn Liên xô, đó là những đống đất xây dựng ngổn ngang ngay ngoài cửa cách hàng rào sân bay không xa; những phiên chợ nông trường lèo tèo; đám đầu trọc nghênh ngang ngoài đường. Và bây giờ ở nước Nga của Putin, cái tôi còn nhớ khi đọc các bản tin, là những làng xóm vắng vẻ, người đàn ông say rượu, những người đàn bà chỉ lo trau chuốt để bán mình cho các nhà tư sản mới nổi.
Tóm lại thì ở đâu cũng có cái gì đó gần gũi với mình.
Ngược lại, đến với nước Nhật, từ lâu tôi cũng biết là đồng văn đồng chủng, da vàng mũi tẹt, nhưng ấn tượng còn lại thì lại là một cái gì khác hẳn so với những ấn tượng đi Nga đi Trung Quốc.
 Tôi thấy xã hội Nhật là một cái gì quá đồng đều và quá hoàn chỉnh, do đó là quá xa xôi, người mình không biết bao giờ mới có thể có một xã hội hợp lý như của họ.
Tình thế đó của nước Nhật toát ra không phải từ không khí sinh hoạt của đường phố mà nó thấm vào trong cách sống cách nghĩ của từng con người, cũng như lối sống rời rã, cái năng động hỗn loạn, và tâm lý bèo dạt mây trôi đã thấm vào trong cách tổ chức xã hội của người Việt.
Nhớ lại khoảng thời gian mấy năm 75-76. Quá say sưa vì chiến thắng, người mình có cảm tưởng rằng đã đánh Mĩ được thì làm gì cũng được. Tôi nhớ không phải ở người dân thường mà ở những cấp lãnh đạo cao nhất hồi ấy đã có ngưỡng vọng có ngày Việt Nam sẽ đuổi kịp Nhật. Công thức mà tôi còn nhớ như in là lời truyền miệng như thế này: “Thôi, nói 20 năm thì hơi lạc quan quá, độ 30 năm nữa thì chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật”.
Nhắc lại ảo tưởng đó để hiểu rằng, chiến tranh để đẩy chúng ta chui vào sừng trâu, và ra khỏi chiến tranh chúng ta đã xa lạ với thế giới như thế nào. Ta chẳng hiểu gì về người, mà cũng chẳng hiểu gì về chính mình.
 Từ đó, trong cái thế giới hiện đại đang thay đổi từng ngày, ta vẫn nhắm mắt mở, bước đi loạng choạng xiêu vẹo.
Trong sự vội vã điên cuồng lo làm ăn sinh sống, xã hội Việt sau chiến tranh đã trở thành một xã hội mất hết tự tin. Không ai bảo ai, không dám thú nhận, song trong thâm tâm, nhiều người chỉ còn tin rằng sẽ chẳng bao giờ chúng ta  theo kịp thiên hạ. Cách sống thời thượng nhất lúc này là có cái gì bòn mót mang bán lấy tiền. Ăn cắp của nhà nước cũng được, lột da nhau cũng được, miễn có tiền. Rồi đi nước ngoài mua sắm những thứ xịn nhất, mới nhất, hiện đại nhất. Rồi lấy đó làm niềm tự hào rằng người mình cũng đang có sự tiến bộ vượt bậc theo kịp các nước trên thế giới.
Mấy năm gần đây, nhờ sự trợ giúp của phía đối tác nước ngoài, các trường đại học ở ta thường mở ra các cuộc hội thảo văn học so sánh, trong đó nhiều báo cáo của giảng viên Việt trình bày như là có một bước tiến song song giữa văn học Nhật Bản hiện đại và văn học VN thế kỷ XX, rồi bước tương đồng giữa văn học Nhật đương đại và văn học Việt Nam hôm nay. Trên một số phương diện khác của đời sống cũng vậy. Một cái gì giống như ảo tưởng đang chi phối cái nhìn người Việt khi chúng ta làm cái việc đối sánh giữa mình với người, và các đồng nghiệp Nhật  vì lịch sự cũng không tiện bác bỏ. Thường những lúc nghe vậy, trong tôi có cái cảm giác xót xa như khi thấy người ta xoa đầu mình coi mình là một lũ trẻ con. Trong những ngày du lịch bụi ngắn ngủi này, cái cảm giác xót xa ấy lại trỗi dậy để mà càng cảm thấy nó một cách thấm thía hơn. 
VƯƠNG TRÍ NHÀN (TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN)
post 2017

Saturday, July 8, 2017

QUẦN THỂ TƯỢNG ĐÀI 1,400 TỶ SƠN LA MUỐN XÂY LỚN CỠ NÀO?

QUẦN THỂ TƯỢNG ĐÀI 1,400 TỶ SƠN LA MUỐN XÂY LỚN CỠ NÀO?
1,400 tỷ cho 1 tượng đài Bác tại Sơn La, chúng ta sẽ có được những gì:
- 140 khu trò chơi vận động ngoài trời dành cho thiếu nhi (10 tỷ/khu)
- 280 trường tiểu học khang trang quy mô cấp Huyện (5...


1,400 tỷ cho 1 tượng đài Bác tại Sơn La, chúng ta sẽ có được những gì:
- 140 khu trò chơi vận động ngoài trời dành cho thiếu nhi (10 tỷ/khu)
- 280 trường tiểu học khang trang quy mô cấp Huyện (5 tỷ/trường)
- 9,300 cầu treo dân sinh phục vụ cho khu vực miền núi (150tr/cây)
- 17,500 căn nhà tình nghĩa dành cho gia đình 4-6 người (80tr/căn)
- 400,000 học sinh được tài trợ Sách Giáo Khoa trong suốt 12 năm học (300,000/bộ)
- 23,000 ca mổ tim cho các em bé dưới 6 tuổi thuộc hộ nghèo và cận nghèo (60tr/ca)
- 5 tỉnh miền Núi được cải tạo toàn bộ các tuyến đường giao thông
- 2,000,000 liều vaccine 6 trong 1 cho các em bé sơ sinh (680,000/liều)
*** Và con số 1,400 tỷ sẽ được x lên 14 lần, nếu 14 tỉnh nữa “quyết tâm” xây dựng tượng đài tới cho tới năm 2030
*** Tuy nhiên, số tiền 1400 tỷ này chỉ là 1/90 số nợ mà Việt Nam chúng ta nợ nước ngoài.
.
Trong đám tang của ông Lý Quang Diệu, cha già lập quốc Singapore, một trong những đảo quốc ngày nay đã thành nơi thịnh vượng hàng đầu thế giới (Những năm 1960, kinh tế Singapore thua xa Sài gòn), ông Lý Hiển Long thủ tướng Singapore có nhắc đến điều này trong điếu văn: “Nếu có một ai đó đến Singapore và hỏi: Tượng đài ông Lý Quang Diệu ở đâu??? Người đó sẽ nhận được câu trả lời: "Hãy nhìn xung quanh bạn - LOOK AROUND YOU!!!”. Ông Lý Hiển Long và người dân Singapore có thể tự hào về điều này, toàn bộ những công trình hạ tầng, những thành tựu kinh tế và sự phồn thịnh rực rỡ ngày nay của đất nước Singapore chính là tượng đài rực rỡ nhất của ông Lý Quang Diệu, dù người Sing vẫn chưa đúc một bức tượng hay xây một quảng trường nào để tưởng niệm ông, dù họ có thể làm điều đó thật dễ dàng với GDP hơn 321 tỷ USD. (Để so sánh, 7,5 tr người Sing làm ra 321 tỷ USD một năm, 90 tr người Việt cặm cụi làm ra khoảng 180 tỷ USD/năm)
Nguồn: Thank you so much for your infographic nha anh Chung Chí Công! </p>

1 CÂU NÓI LÀM THAY ĐỔI DOANH THU

(chuyện xưa nhưng không cũ)


---

“Khát nước, tôi tạt ngay tới cái KFC gần nhất. Được thúc đẩy bởi nhu cầu sinh tồn, tôi mò ngay tới quầy bán hàng với cái cổ như lò lửa, tay chỉ chỉ vào ly Coca Cola. Anh chàng bán hàng nhìn tôi và hỏi:
– Ly lớn hay nhỏ ạ?
Quầy nước mất ngay doanh thu, bởi sau khi được máy lạnh hồi máu, như tất cả mọi người, tôi tự động trả lời:
– Ly nhỏ.
Một ý nghĩ bất chợt đến với tôi: Giả như anh bán hàng chỉ hỏi: “Ly lớn phải không ạ?”, thì tôi có tự động trả lời có không nhỉ?
Thế là tôi gặp ông Harry Brown, quản lí cửa hàng Abraham & Straus ở Brooklyn, và Fred Griffiths, chủ tịch chuỗi cửa hàng Pennsylvania Drug Stores ở New York. Họ đồng ý cho thử nghiệm, cụ thể, mỗi khi khách hàng hỏi mua Coca Cola, người bán hàng sẽ hỏi: “Loại lớn đúng không ạ?” thay vì hỏi “Lớn hay nhỏ” như bình thường.
Sau 5.000 lần thử, kết quả là 7 trong 10 khách hàng sẽ tự động đồng ý loại lớn, đồng nghĩa với việc cứ 10 khách hàng thì cửa hàng sẽ lợi thêm 35 xu!
Chỉ một thay đổi nhỏ thôi là đủ.”

CHIM SỢ CÀNH CONG

CHIM SỢ CÀNH CONG
Thành ngữ “Chim sợ cành cong” có từ “Chiến Quốc sách – Sở sách tứ”.
Canh Luy thời Chiến Quốc là thần tiễn thủ nổi tiếng ở nước Ngụy. Một lần, Ngụy Vương dẫn anh ta đến vùng ngoại ô đi săn, họ vừa thưởng thức cảnh thu, vừa tìm con...

 Thành ngữ “Chim sợ cành cong” có từ “Chiến Quốc sách – Sở sách tứ”.
Canh Luy thời Chiến Quốc là thần tiễn thủ nổi tiếng ở nước Ngụy. Một lần, Ngụy Vương dẫn anh ta đến vùng ngoại ô đi săn, họ vừa thưởng thức cảnh thu, vừa tìm con mồi.
Lúc ấy ở trên bầu trời có một đàn chim ưng bay qua, Sở Vương hỏi Canh Luy: “Chim ưng đang bay trên trời ngươi có thể bắn trúng không?
Canh Luy không do dự trả lời: “không thành vấn đề”. Nói xong liền cầm lấy cung tên, chuẩn bị bắn một con chim ưng lớn cho Sở Vương. KHi anh ta đưa tên lên. thì từ đằng xa nhìn thất một con chim ưng khác cũng bay tới, bay rất chậm, hơn nữa không ngừng kêu lên rất thê thảm.
Canh Luy dừng lại nói: “Đại vương, tôi còn có thể không dùng tên, chỉ kéo cung thôi thì có thể bắn được con chim ứng lớn ở trên trời xuống cho đại vương”.
Sở VƯơng nhìn Canh Luy với vẻ hoài nghi, còn cho rằng anh ta đang nói khoác.
Canh Luy rất tự tin kéo cung lên, chỉ nghe thấy “phựt” một tiếng, con chim ưng đó vẫy vùng rồi kêu lên một tiếng, thì từ trên không rời xuống.
Mọi người đều cảm thấy rất kỳ lạ, Sở Vương ca ngợi nói: “Tiễn pháp của ngươi thật là danh bất hư truyền, chỉ cần tiếng cung của ngươi thôi cũng đã có thể dọa chết con chim ưng rồi”.
Canh Luy nói một cách khiêm tốn: “Thật ra không chỉ có tôi có thể dọa chết con chim ưng đó, mà đại vương ngài cũng có thể làm được, vì đó là một con chim ưng đã bị thương”.
“Sao ngươi biết?” Sở Vương càng ngạc nhiên hơn.
“Khi nãy tôi thất con chim ưng đó bay rất chậm, tiếng kêu thê thảm. Vì nó từng bị tên bắn và vết thương vẫn chưa lành, cho nên nó bay rất chậm, hơn nữa vì nó đuổi không kịp đàn nên mới kêu lên như vậy. Vết thương cũ chưa lành hơn nữa nó vẫn còn kinh sợ, bây giờ nghe thấy âm thanh của dây cung nó đương nhiên phải cố gắng bay lên cao, nhưng làm vậy thì nó lại động vào vết thương cũ, cho nên mới bị rơi xuống đất”.
Sở Vương cho người nhặt con chim đó lên xem, quả nhiên trên người con chim đó có một vết thương cũ.
Thành ngữ “Chim sợ cành cong” vốn chỉ con chim sợ hãi khi nhìn thấy cung tên, nó còn dùng để chỉ về người từng bị hù dọa, giờ chỉ cần nghe thấy tiếng động nhỏ là cũng cảm thấy kinh sợ rồi.

TU PHẬT



Tu Phật mà né được khổ đau thì không còn gì là sự cao siêu của tu Phật nữa,
.
tu Phật là đối diện với khổ đau mà ta không bị đau khổ mới là mục đích của Phật giáo.
.
Nên nhớ Đức Phật không phải là thánh thần, chúa trời gì cả. Phật không tạo ra luật nhân quả để khen người này và phạt người kia, đó là quy luật vũ trụ, khách quan mà không một ai có thể chuyển hóa và tác động vào nó kể cả Phật.
.
Tu Phật giúp ta chuyển hóa về nội tâm, chứ không phải ngoại cảnh. Khi nội tâm được chuyển hóa, được khai sáng, thì những tác động ngoại cảnh không làm ta phải phiền lòng nữa.
.
Đừng mong sự cứu rỗi từ Đức Phật, mà hãy theo lời Ngài dậy để chỉnh sửa nội tâm.

Mỹ

Nghĩa gốc của chữ này không phải “Đẹp”, mà là “ngon” trong ngon miệng.
Chữ “Mỹ 美” thuộc bộ “Dương”, dưới là chữ “đại”.
Nghĩa gốc xuất phát từ món ăn của dân du mục, thịt dê, dê lớn thì béo, thì ngon. Cùng nghĩa với chữ “Thiện 膳”, “thiện” cũng có nghĩa là thức ăn ngon.Những từ ghép với “Mỹ” chỉ ngon thì có :
Mỹ vị, mỹ tửu, mỹ thực.
Sau này mới mở rộng nghĩa cho những gì tốt đẹp, hài lòng, lý tưởng, khen ngợi…
Nghĩa gốc của chữ này không phải “Đẹp”, mà là “ngon” trong ngon miệng.
Chữ “Mỹ 美” thuộc bộ “Dương”, dưới là chữ “đại”.
Nghĩa gốc xuất phát từ món ăn của dân du mục, thịt dê, dê lớn thì béo, thì ngon. Cùng nghĩa với chữ “Thiện 膳”, “thiện” cũng có...



(via Huynh Nha Minh)

Tư duy triệu phú :)




Mt nhà triu phú lái mt chiếc xe sang trng tr giá 200 ngàn đô đến ngân hàng, và đ ngh được vay 1.000 usd, thế chp bng chiếc xe. Sau khi xem giy t xe, ngân hàng đng ý cho vay. Hai tháng sau, nhà triu phú quay li ngân hàng thanh toán tin và ly li chiếc xe. Nhân viên ngân hàng hi:

Chiếc xe này tr giá rt nhiu tin, ông có th vay nhiu hơn s đó. Vy ti sau ông ch vay có 1.000.

Nhà triu phú cười và tr li:

Tôi không vay tin, tôi đến đây đ gi xe. Nếu tôi gi xe gara bên kia đường, tôi phi tr 200 cho 2 tháng. Còn đây tôi ch phi tr 50 cho tt c tin lãi và l phí.

Bài hc: mi người ch xem ngân hàng là nơi đ đến vay tin. Nhà triu phú li có thêm mt chiu nhìn khác. Ông xem ngân hàng là nơi gi xe giá r. Và ông đã có lý.

Suy nghĩ: bn hãy th nhìn xem các s vt quanh bn, và phát hin thêm nhiu chiu nhìn khác.