KHÔI PHỤC ĐÈN LỒNG TRUNG THU CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Từ bao thế kỷ nay Việt Nam vẫn luôn là nước độc nhất trên thế giới lấy ngày rằm tháng Tám Âm lịch mỗi năm làm Tết Nhi đồng. Các nước "đồng văn" sử dụng Âm lịch khác là Trung Hoa, Hàn Quốc và Nhật Bản chỉ xem dịp rằm tháng Tám là lễ hội đoàn viên hoặc lễ hội lúa mới. Và Việt Nam cũng là nơi duy nhất có phong tục làm lồng đèn hình các con thú cho trẻ em trong dịp Tết Nhi đồng, tức là Tết Trung thu.
Tương truyền vào thời Đường bên Trung Hoa (Phan Kế Bính cho là vào thời Tống) có con cá chép thành tinh. Mỗi năm đến tối rằm tháng Tám con tinh cá vào kinh đô Tràng An bắt người dân để ăn thịt. Triều đình nhà Đường nghĩ ra một kế là dậy cho dân Tràng An làm đèn lồng hình con cá chép bằng khung tre phết giấy hay vải lụa, để đêm Trung thu thắp lên đem ra treo trước nhà hay để đi rước trong kinh thành. Con tinh cá thấy thế tưởng đồng loại đã làm việc ở những chỗ ấy rồi nên bỏ đi. Tục lệ này dần lan ra mọi nơi trong nước và thành lệ mỗi năm. Nước ta lúc bấy giờ hãy còn bị nội thuộc nhà Đường, cho nên có lẽ người mình đã tiếp thu phong tục làm đèn lồng hình con cá này từ giai đoạn đó.
Khi người Mông Cổ chiếm được nước Trung Hoa từ nhà Tống năm 1279, lúc đầu họ đã bãi bỏ nhiều lề lối cũ của người bản địa. Và có thể tục lệ làm đèn con cá chép của người Hoa cũng bị phế bỏ lúc đó. Trong khi đó Việt Nam vì đã ngăn cản được các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, cho nên chúng ta vẫn giữ được nền tự chủ và các phong tục cũ. Trong đó có việc làm đèn lồng Trung thu.
Rồi lần hồi người Việt đã phát triển thêm các loại đèn lồng hình thú hay hoa quả khác cho trẻ em, dựa trên cổ tích Trung thu. Ví dụ như đèn con thỏ ngọc, hay đèn con thiềm thừ hý nguyệt. Theo di thảo của vua Lê Thánh Tôn thì thiềm thừ, tức con cóc ba chân, là thủy tổ của các loài cóc, ếch. Và thiềm thừ đã sống trên cung Trăng từ nhiều vạn năm. Sau này người mình còn tạo ra các loại đèn con bướm, con gà, con tôm, con cua, quả đào, quả lựu, v.v…, cho thêm phong phú.
Từ nhiều thế kỷ, trẻ em Việt Nam đã vui Tết Trung thu của mình với những thứ đồ chơi độc đáo như con giống làm bằng bột và đèn lồng hình dạng các con thú. Đấy là những phong tục đẹp đẽ và độc đáo của riêng người Việt. Nhiều bảo tàng bên Pháp hiện vẫn còn giữ được những cái đèn Trung thu và những con giống bột rất đẹp, tinh xảo; được làm cho Tết Nhi đồng của Hà Nội từ những thập niên đầu thế kỷ 20.
Cho đến cuối thế kỷ 19 thì thú chơi lồng đèn Trung thu ở miền Bắc Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đã thành rõ nếp lắm rồi. Theo các ảnh chụp cũng như tranh vẽ đèn Trung thu ở Bắc Việt của các nhiếp ảnh gia và các nhà ngiên cứu người Pháp, thì từ những năm cuối thế kỷ 19 đèn Trung thu cho trẻ em ở Hà Nội đã rất xúc tích, đa dạng. Mẫu mã đèn Trung thu ở Sài Gòn dù ở thời điểm cực thịnh về sau này, nghĩa là cho đến giữa thập niên 1970, vẫn không thể so sánh với các đèn Trung thu ngoài Bắc mấy thập kỷ trước đó được.
Ngày xưa ở Bắc Bộ có nhiều nơi làm đèn Trung thu cho trẻ em. Nhưng nổi trội nhất phải kể đến làng Báo Đáp ở Nam Trực, Nam Định. Người làng Báo Đáp làm đèn Trung thu bài bản và quy mô hơn mọi nơi khác. Có thể nói là nếu Bát Tràng nổi tiếng với đồ gốm và Vạn Phúc nổi tiếng với vải lụa, thì Báo Đáp được biết đến là làng đèn Trung thu.
Các biến động chính trị, lịch sử đã làm nghệ thuật làm lồng đèn Trung thu cổ truyền quý báu của người mình gần như biến mất từ lâu ở miền Bắc. Nhưng thật may là rất nhiều người dân làng Báo Đáp di cư vào Sài Gòn hồi giữa thập niên 1950 đã tụ họp lại lập ra xóm Phú Bình, hiện ở quận Tân Phú, và tiếp tục nghề làm đèn cố hữu của họ. Tất cả đèn Trung thu của Sài Gòn và các tỉnh miền Nam từ hơn nửa thế kỷ nay đều được sản xuất từ Phú Bình. Nhưng các loại đèn cầu kỳ, tinh xảo cổ xưa cũng đã bị thất truyền ở Sài Gòn từ vài ba chục năm nay.
Từ năm 2007 tôi đã bắt đầu mầy mò ở khu Phú Bình, là chỗ tôi vẫn được đưa đến mua đèn Trung thu loại cao cấp từ hơn nửa thế kỷ trước khi còn bé, để cố gắng tìm nghệ nhân tâm huyết cho việc phục hồi lại nghệ thuật quý báu này. Thật ra mục đích đầu tiên của tôi chỉ là làm lại cái đèn con thỏ mà Trung thu mỗi năm hồi đó tôi nhất định phải có, do cùng một nghệ nhân làm. Tôi quý cái đèn con thỏ đó đến nỗi đã vẽ nằm lòng lại từng chi tiết của nó, nhất là cách dán lông thỏ đặc biệt của người nghệ nhân già. Và con thỏ đó sẽ là mấu chốt để phục hồi lại các đèn Trung Thu đẳng cấp của Báo Đáp - Phú Bình cũ.
Nhưng chuyện không đơn giản. Ví dụ như cách đây khoảng tám năm, có lần tôi cố gắng chỉ cho một người làm lồng đèn cách dán lông thỏ giả vào những cái đèn tương đối còn chấp nhận được, nhưng là những lồng đèn có vẻ đẹp nhất trong phố lúc đó, của anh ta. Như một gợi ý cho anh ta về cách trang trí đèn lồng Trung thu hồi xưa. Nhưng vì anh thợ không hứng thú lắm, cho nên không thành công. Hiện nay, những lồng đèn bán ở chợ lồng đèn Trung thu ở quận 5 vẫn dán lông giả đủ màu sắc mà hoàn toàn không có một căn bản mỹ thuật nào. Và người ta cũng không hiểu mục đích dán lông như vậy để làm gì.
Lông thỏ để làm đèn Trung thu được đặt hàng từ mùa hạ để lấy lông ngắn, không quá xù. Riêng lông bụng dài đẹp phải đặt mua ở Đà Lạt vào mùa đông. Hồi đó chỉ có thỏ ta lông ngắn cho nên phải khó như vậy. Rồi người ta phải biết chỗ nào trên đèn dán lông lưng thỏ, chỗ nào dán lông bụng. Ngày nay vì ý thức đạo đức cho nên phải dùng lông thỏ giả. Nhưng dùng lông giả thì cũng phải biết cách tỉa lông sao cho giống lông lưng, lông bụng thỏ thật.
Mãi đến 2017 tôi mới có cơ duyên gặp được gia đình cụ quả phụ Nguyễn Trọng Văn ở Phú Bình. Gia đình cụ Văn đã có truyền thống làm đèn Trung thu từ nhiều đời ở làng Báo Đáp. Từ khi dọn vào Sài Gòn họ vẫn tiếp tục giữ nghề, dù rằng có phải thay đổi một ít về hình thức của những chiếc đèn này. Người làm việc trực tiếp với tôi là em Nguyễn Trọng Bình, con trai cụ Văn. Bình rất khéo tay, kiên nhẫn, sáng dạ. Và quan trọng nhất là cầu tiến, yêu nghề. Em nhẫn nại chữa các lỗi kỹ thuật hay nhận những yêu cầu khó khăn mà không bao giờ than van, mệt mỏi…
Bình có những kỹ thuật và mẹo để uốn khung tre thành những hình dạng phức tạp một cách thật giản dị và tự nhiên đến buồn cười. Có lẽ đây là những gì còn sót lại từ quê tổ cũ. Chỉ một, hai ngày sau khi gặp gỡ, cái đèn con thỏ thân thương hồi bé của tôi đã hiện ra trước mặt như chưa hề vắng bóng. Cụ Văn cứ ôm cái đèn mà thì thầm: “Đây mới là đèn con thỏ…”. Thật cảm động. Các phác họa khung lồng đèn tôi đưa ra khó đến đâu Bình cũng giải quyết dễ dàng, nhuần nhuyễn như đã sẵn quen thuộc.
Nhưng thế chưa là tất cả trong việc hồi phục lại cái nghệ thuật cổ truyền quý giá đã mất này.
Sau khi đã phục hồi lại được một số đèn Trung Thu cao cấp của Sài Gòn cũ, chúng tôi vẫn bí tị không hiểu người Báo Đáp ngày xưa dán đèn bằng vật liệu gì. Theo hình ảnh và hiện vật còn lại ở các bảo tàng bên Pháp, một số rõ ràng được dán bằng giấy bóng kính. Có những cái đèn dán bằng lụa mỏng. Nhưng phần nhiều được dán giấy nhưng không phải là giấy bóng kính, vì cách vẽ theo lối bôi nước nhiều lần (tương tự như thủy mặc) trên các đèn này thì các loại giấy thường đều không chịu nổi.
Cụ Văn bị bán thân bất toại do tai biến mạch não, cho nên vẫn phải ngồi xe lăn từ nhiều năm nay. Và cụ dường như không để ý mấy đến những gì diễn ra chung quanh. Nhưng từ khi chúng tôi làm lại những lồng đèn cũ thì cụ có vẻ năng động hơn, và nói chuyện với tôi rất nhiều. Một hôm khi Bình và tôi đang bàn về loại vật liệu dán đèn khó hiểu đó, thì cụ Văn bật ra như thét: “Giấy nhiễu! giấy nhiễu mới chịu được nước chứ”. Rồi cụ bảo Bình ra hỏi ‘A Dí’ xem bà ấy còn giấy nhiễu không. A Dí (tức ‘bà dì’ trong tiếng Quảng Đông) là một bà già người Hoa chuyên buôn bán giấy các loại ở chợ Kim Biên từ đã rất lâu, và là bạn thân của gia đình.
Và A Dí cũng giật mình khi chúng tôi tìm giấy nhiễu, vì mấy chục năm nay không ai hỏi đến loại giấy này. Lúc đó gần Tết Nguyên Đán cho nên bà ấy hẹn sau Tết sẽ cố tìm nhập về cho chúng tôi một ít để thử.
Thì ra người Báo Đáp xưa kia phần lớn dán đèn Trung thu bằng giấy nhiễu, hoặc có khi bằng vải. Giấy nhiễu là loại giấy bên trong có trộn vụn tơ hay sợi vải để chịu nước. Đến những năm 1940 trở đi họ cũng đã bắt đầu dán đèn bằng giấy bóng kính. Khi vào Sài Gòn, họ đổi theo phong cách và thị hiếu của các nhà buôn Chợ Lớn mà đổi sang hoàn toàn dán đèn lồng bằng giấy bóng kính, thường là mầu đỏ. Theo phong cách của người Hoa Chợ Lớn, đèn Trung thu cao cấp nhiều khi còn được gắn thêm lông thỏ và mặt mài kim kính. Chỉ tiếc là loại giấy bóng kính của Nhật mấy chục năm trước với độ dầy 20-24µ nay không còn nữa. Hiện người ta phải dùng giấy loại 18µ dễ loang mầu của Trung Quốc.
Cụ Văn cũng cho biết rằng các đèn Trung thu có cái khung treo bên trên hình tròn bằng tre ngày xưa được gọi là đèn Tàu. Đèn Ta hoặc được treo trực tiếp lên cán tre, hoặc được gắn vào khúc cành tre ở bên dưới đèn.
Và cuối cùng chúng tôi cũng tìm tòi ra được các chất liệu và phương pháp để tạo khung, bồi giấy cho các loại đèn con thú cổ truyền Việt Nam. Hóa ra không phải chỉ cần có đúng chất giấy, chất liệu vẽ, và tạo được khung đèn là đủ đâu. Cao điểm là các lồng đèn con cua sống và con cá hóa long của người Báo Đáp ngày xưa, mà chúng tôi đã mầy mò từ khi gặp gỡ 3 năm trước đến nay, đã được xuất hiện trở lại nhân dịp Trung thu 2020. Đến được bước này rồi thì các đèn Báo Đáp cổ truyền khác như đèn con cua luộc, con bướm, quả đào, quả lựu, v.v…, sẽ chỉ tuần tự mà ra lò khi có thời giờ thôi…
Bên cạnh đó, nhiều mẫu mã mới không có trong hệ thống đèn Trung thu cổ cũng được tạo ra theo phong cách truyền thống để cho bộ sưu tập phong phú thêm. Ví dụ như đèn con lợn làm phỏng theo các loại tranh dân gian như Đông Hồ hay Kim Hoàng. Hay đèn con cá Koi Nhật Bản…
Hiện nay các nhà sản xuất đèn ở Phú Bình cũng đã bắt đầu theo mẫu mã của gia đình cụ Văn mà làm lại đèn Trung Thu truyền thống, dù lúc đầu họ vẫn chỉ làm được những mẫu đơn giản về hình dạng. Nhưng số lượng khách đặt hàng đèn Trung thu truyền thống từ khắp nơi trong nước, từ Hà Nội đến Huế hay Cần Thơ… đã tăng lên gấp bội so với những năm trước. Và nhiều trường học bắt đầu cho học sinh làm quen với thú vui rước đèn Trung thu cổ truyền. Đèn Trung thu truyền thống Việt Nam đang tái xuất hiện một cách rất tích cực.
Điều quan trọng nhất là người thanh niên Phú Bình / Báo Đáp này hiện đã nắm giữ lại được tất cả các bí quyết của nghệ thuật làm đèn Trung thu cổ truyền của đất nước, mà trong bao năm tưởng như đã mất.
(Trịnh Bách)