Thursday, April 28, 2016

NHẬT BẢN CHUẨN BỊ NHỮNG GÌ CHO ĐỘNG ĐẤT HÀNG NĂM ?




Vừa qua, tại Kyushu, Nhật Bản đã xảy ra liên tục hai trận động đất, trong đó trận động đất vào ngày 16 lên đến cấp 7,3.
Theo truyền thông Nhật Bản, có 41 người tử nạn, hơn 1000 người bị thương. Theo số liệu của Cơ quan Khí tượng Nhật Bản, trận động đất ở Kyushu vào ngày 16 vừa qua có tâm chấn ở độ sâu 12km, thuộc địa chấn nông. Tâm chấn ở đất liền, có cường độ mạnh và nông nhưng số người gặp nạn lại tương đối ít. Trong vài năm trở lại đây, tại Nhật xảy ra nhiều trận động đất từ cấp 6 trở lên, nhưng số người thương vong rất thấp so với những trận động đất tương tự trên thế giới. Là một đất nước thường xuyên có động đất, vì thế người Nhật đã xây dựng được hệ thống ứng phó giúp hạn chế tối đa số người thương vong mỗi khi có động đất.
Xây dựng công trình kiến trúc chống động đất
Theo thống kê, gần 90% số người chết trong động đất là do công trình kiến trúc đổ gây ra, vì thế nâng cao khả năng chống động đất của công trình kiến trúc là một trong những biện pháp để bảo vệ an toàn cho con người trong động đất.
1. Kế thừa kiến trúc Trung Quốc cổ đại
  • Công trình kiến trúc bằng gỗ có sức chịu dư chấn cao, đây là phương pháp “lấy nhu khắc cương” để hạn chế đối đa thiệt hại khi động đất xảy ra. Ở Trung Quốc, nhiều công trình kiến trúc bằng gỗ có từ thời cổ đại đã đứng vững sau những trận động đất, ví dụ như Độc Lạc tự ở huyện Kế, Thiên Tân (Dulesi, Jixian, Tianjin), Mộc tháp ở huyện Ứng tỉnh Sơn Tây… Trong hàng ngàn năm qua chúng vẫn “ung dung tự tại” mà không bị hủy hoại vì những trận động đất.
  • Nhiều công trình kiến trúc của Nhật ngày nay đã mô phỏng kiến trúc bằng gỗ của Trung Quốc ngày xưa. Đa số người dân Nhật xây dựng nhà bằng gỗ để tăng cường khả năng chống sốc khi có động đất. Về phương diện này, có thể nói người Nhật đang làm tốt nhất thế giới.
2. Xây dựng bộ tiêu chuẩn cho công trình kiến trúc
  • Sau đại địa chấn ở Hanshin năm 1995, người Nhật đã rút ra nhiều bài học và buộc phải thực hiện tiêu chuẩn về tính đàn hồi trong xây dựng công trình kiến trúc. Trong “Tiêu chuẩn về công trình kiến trúc”, người Nhật quy định công trình kiến trúc phải có khả năng chịu được chấn động từ cấp 7 trở lên, không cho phép tồn tại những công trình không đạt chuẩn.
  • Sau năm 1995, tất cả những công trình kiến trúc của Nhật khi xây dựng phải nghiêm túc tuân thủ quy định mới này, những công trình cũ phải sửa chữa lại cho đạt tiêu chuẩn. Qua hơn 10 năm nỗ lực, nhà ở của người Nhật hiện nay trở nên “mạnh mẽ” khác thường. Vào ngày 11/3/2011, vùng Đông Bắc của Nhật Bản xảy ra trận động đất mạnh cấp 9.0, nhưng số nhà cửa bị hủy hoại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Theo thống kê của Bộ Đất đai Hạ tầng và Giao thông Vận tải Nhật Bản (Ministry of Land, Infrastructure, Transport and Tourism – MLIT), trong tổng số 13.000 ngôi nhà bị phá hủy ở Nhật thì trên 95% vì sóng thần, nguyên nhân vì động đất rất ít.
  • Thời gian gần đây người Nhật còn nghiên cứu làm ra cấu trúc máng nước cho móng nhà dựa trên cơ sở chuyển động trượt, móng nhà lò xo… cho thấy trình độ làm nhà chống động đất của người Nhật liên tục được nâng cao. Dĩ nhiên, theo thời gian, năng lực chống động đất của công trình kiến trúc sẽ giảm dần, vì thế người Nhật cũng phải chú ý “kiểm tra sức khỏe” cho công trình theo định kỳ.
Hệ thống giám sát động đất hoàn thiện
  • Với trình độ kỹ thuật hiện nay, cho dù khó dự báo động đất chính xác, nhưng nếu có hệ thống dự báo tốt khi xảy ra động đất sẽ hạn chế đáng kể thiệt hại và cứu mạng được nhiều người. Động đất nếu ở vùng ven biển thường kèm theo sóng thần, vì thế dự báo của hệ thống giám sát động đất cũng giúp hạn chế tổn thất do sóng thần gây ra.
  • Cơ quan Khí tượng Nhật Bản xây dựng khoảng 200 trạm giám sát động đất trên toàn quốc, còn Viện Nghiên cứu Chống thảm họa Nhật Bản đặt 800 trạm giám sát động đất trên toàn quốc, con số cả ngàn trạm giám sát hình thành một mạng lưới nắm bắt sóng địa chấn khổng lồ. Một khi xảy ra rung chấn, cơ quan chức năng sẽ tiến hành phân tích số liệu do trạm quan sát gửi về để xác định quy mô động đất, tính toán thời gian sóng động đất đến các nơi, và văn phòng khí tượng lập tức đưa ra thông báo khẩn cấp.
  • Ngoài ra, Cơ quan Khí tượng Nhật bản cũng có hệ thống dự báo sóng thần khá hoàn thiện để báo trước cho người dân ở những vùng duyên hải. Mỗi địa phương đều có hệ thống dự báo sóng thần cùng Trung tâm Cứu nạn khu vực luôn sẵn sàng hỗ trợ để hạn chế tối đa thiệt hại có thể.
Khả năng cứu nạn hoàn hảo khiến thế giới kính nể
  • Trong hệ thống pháp luật về cứu nạn, người Nhật có “Luật cơ bản về ứng phó thảm họa” ra đời năm 1961. Luật này bao gồm: tổ chức chống thảm họa, kế hoạch chống thảm họa, dự phòng thảm họa, đối sách ứng cứu và những vấn đề xây dựng lại sau thảm họa, trách nhiệm của các cơ quan trung ương và địa phương trong dự báo thảm họa…. Nhìn chung hệ thống luật khá toàn diện, giúp hệ thống hành chính chống thảm họa ở Nhật Bản vận hành mạnh mẽ.
  • Năm 2011, Nhật Bản gặp siêu động đất gây thảm họa kép là sóng thần và rò rỉ hạt nhân. Hệ thống chống thảm họa khi đó đã có phản ứng đặc biệt chuyên nghiệp, được tổ chức rất trật tự, được phối hợp với năng lực tự ứng phó đặc biệt tốt của người Nhật. Hệ thống cứu nạn của Nhật Bản làm cả thế giới khâm phục: họ huy động 100 ngàn bảo vệ, 6500 quân nhân và 1128 nhân viên phòng chữa cháy, nội trong 3 ngày tìm cứu nạn cho 15000 người không may mắn, đưa 55000 người trong khu vực thảm họa đến 2100 cơ sở tị nạn.
  • Người Nhật có hệ thống dự trữ và vận chuyển vật tư cứu nạn, đảm bảo vật tư ứng cứu được cung cấp kịp thời sau khi thảm họa xảy ra. Trước tiên họ khuyến khích mỗi gia đình tự chuẩn bị vật tư cứu nạn, đặc biệt là lương thực và nước uống phải đảm bảo cho gia đình sống từ 3 – 7 ngày. Tiếp đến, mỗi khu vực cũng phải tự xây dựng trung tâm vật tư dự trữ, đảm bảo những vật dụng cần thiết như: lều bạt, chăn nệm, máy phát điện và nhiên liệu, điện thoại và lương thực… Mọi thứ phải được cung cấp kịp thời khi thảm họa xảy ra.
Nâng cao ý thức tự ứng phó cho mọi người
  • Văn hóa phản ứng với thảm họa là rất quan trọng. Trong nhiều thảm họa động đất, do khả năng tự ứng phó của người dân kém nên thường dẫn đến những hành vi không bình thường, làm tăng thêm thiệt hại cũng như thương vong.
  • Người Nhật có hệ thống giáo dục chống thảm họa rộng khắp với trình độ tiên tiến hàng đầu thế giới. Trong hệ thống này, giáo dục trong nhà trường đóng vai trò trung tâm. Nhờ có văn hóa ứng phó với thảm họa nên trong trận siêu động đất ngày 11/3/2011 ở phía đông Nhật Bản, mọi người có thể triển khai công tác tự ứng cứu có trật tự, không xảy ra hỗn loạn.
  • Người Nhật Bản được dạy về ý thức ứng phó với động đất ngay từ nhỏ, có sự phối hợp giữa nhà trường và xã hội. Những học sinh tiểu học thường xuyên được diễn tập ứng phó khi có động đất để các em ý thức không hoảng loạn khi có động đất, cách bảo vệ tốt phần đầu và lánh nạn một cách có trật tự.
  • Các gia đình người Nhật đều có bản đồ hiển thị chi tiết nơi lánh nạn và hướng dẫn con đường nhanh nhất đến nơi lánh nạn. Những nơi lánh nạn chủ yếu ở công viên và trường học. Tại Nhật, gần khu dân cư thường có một công viên rộng rãi, đường trong công viên không dưới 4 mét để xe cộ ra vào thuận tiện, trong công viên có hồ nước và trung tâm cứu nạn.
  • Với người Nhật, công việc nội trợ trong gia đình thường do phụ nữ làm, họ cũng là người có nhiều kinh nghiệm trong công tác ứng phó với động đất ở trong nhà. Do động đất có thể làm bể ống khí đốt gây hỏa hoạn, vì thế mỗi khi cảm nhận có dư chấn là họ phải nhanh chóng tắt bếp, mở cửa sổ để có thể thoát hiểm. Mỗi gia đình thường chuẩn bị sẵn “túi chống cháy”, bên trong có nhiều thứ như lương thực, nước uống, thuốc, điện thoại, khăn, khẩu trang, dây thừng… Các bà chủ cũng tiến hành kiểm tra và thay đổi những vật phẩm ứng cứu này theo định kỳ.
  • Trong thảm họa siêu động đất năm 2011, dù cảnh tượng khu vực thảm họa trông không khác gì địa ngục, nhưng dường như không thấy nạn nhân nào than khóc, mọi người chỉ lặng lẽ dùng khăn lau những vết bẩn trên mặt và xếp thành hàng dài ngay ngắn để nhận nước uống, lương thực. Khung cảnh làm cả thế giới phải ngã mũ khâm phục!
Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng TrungTinh Vệ biên dịch